Khổng bị chê bai, thì nền luân lý của Lão lại đạt tới mức rất cao, khuyên
người ta quả dục, coi vạn vật cũng như mình. Nói chi tới Đạo học, đời
Tống, Minh mà mục đích là tìm cách tu dưỡng ra sao để mọi người đều có
thể trở thành một ông thánh.
Sau cùng, chính trị cũng giữ một địa vị quan trọng trong triết học; chẳng
những bất kỳ một triết gia nào ở Trung Hoa cũng cho sự trị quốc, bình thiên
hạ là trách nhiệm của mình. Cho nên dù chủ trương vô vi như Lão, cũng có
ý cứu đời chứ không phải chỉ để “độc thiện kỳ thân”. Thời Tiên Tần và
thời cuối Thanh, vì hoàn cảnh, triết gia nào cũng có tư tưởng chính trị, mà
giữa hai thời đó, trong non hai ngàn năm, vấn đề tôn quân hay phế quân,
vấn đề tự do hay áp chế, vấn đề phú dân hay giáo dân, triều đại nào cũng
đem ra bàn. Ở Trung Hoa, ý niệm “người” và ý niệm “dân” (công dân) cơ
hồ như hoà với nhau làm một, mục đích giáo dục không phải, như Cô Hồng
Minh đã nói, là để có những người tốt mà là để có những người dân tốt, cho
nên có những câu: “Trời sinh dân đó”, “Trời yêu dân lắm”, “Cái đạo của
Đại học ở chỗ… thêm yêu dân”.
Vì vậy họ trọng thức tế, trọng luân lý, chính trị, cho rằng mọi suy nghĩ tìm
tòi phải đưa tới cứu cánh nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân,
đó là đặc điểm thứ nhất của triết học Trung Quốc.
2. Đặc điểm thứ nhì là trừ một số ít nhà như Tuân Tử, Vương Sung, cho
đạo Trời và đạo người không quan hệ gì với nhau, còn hầu hết những nhà
khác đều nhận rằng Trời là gốc của người, Trời với người là một.
Theo Khổng và Mặc thì Trời sinh dân, muốn cho dân sung sướng, dân mà
thuận ý Trời thì được Trời thưởng, trái ý Trời… thì bị Trời phạt. Mặc khác
Khổng ở chỗ: Khổng chủ trương vua thay Trời trị dân, còn Mặc thì muốn
rằng dân tự lựa người hiền để trị nước, nhưng cả hai đều bảo nhà cầm
quyền phải tuân mệnh Trời.