ngày, thì người Trung Hoa quả thật không có một tôn giáo.
Thời Thượng cổ, họ cũng tin Trời, cũng thờ Trời và vô số quỷ thần
,
cũng cúng vái, nhưng chưa thể bảo là họ đã có một tôn giáo theo nghĩa trên
được; thời đó, như mọi dân tộc chưa khai hoá, họ theo đa thần tín ngưỡng.
Mặc Tử có lẽ là người đầu tiên muốn lập một tôn giáo cho họ (cũng thờ
cúng, đoàn thể cũng tổ chức chặt chẽ, cụ tử cũng có quyền rất lớn với tín
đồ), nhưng tôn giáo đó suy lần có lẽ vì chủ trương của họ Mặc có tính cách
chính trị nhiều hơn là tôn giáo. Nội phép “ba biểu”, với cách chứng minh
quỷ thần của ông cũng cho ta thấy rằng ông thực không trọng một đức tin
tuyệt đối, để có đủ tư cách thành một giáo chủ, như những giáo chủ khác.
(Đạo Phật tuy mới đầu cũng là một triết học, sau dễ biến ra một tôn giáo,
nhờ dân tộc Ấn Độ có sẵn quan niệm luận hồi, địa ngục).
Tới đời Tần, một số người chắp nhặt tư tưởng của Lão Tử và của phái Âm
dương, cũng muốn lập lên một tôn giáo nữa, tức Đạo giáo, nhưng họ không
tìm hạnh phúc ở đời sau mà lại muốn trường sinh, muốn thành tiên ngay ở
đời nay, cho nên tôn giáo của họ không thể phổ biến được, không gây nổi
một tín ngưỡng – vì mấy ai tin rằng có sinh mà không tử -, mà chỉ tạo được
một số dị đoan rất thấp.
Đạo Khổng, trước sau chỉ là một triết học
; từ đời Đường trở đi, Khổng
Tử mới thực là được thờ như một vị thánh, nhưng sự thờ phụng đó không
có tính cách tôn giáo (nó chỉ như thờ phụng danh nhân), mà lại hạn chế
trong giới trí thức, tức 5% dân chúng vì Khổng miếu mỗi năm chỉ cúng có
hai lần (vào xuân và thu) mà không phải ai cũng được vào lễ, tuyệt nhiên
không có sự tụng niệm mỗi ngày như đạo Ki tô, đạo Phật.
Vậy ta có thể nói rằng nếu đạo Phật không vào Trung Hoa thì người Trung
Hoa không có tôn giáo. Nhiều dân tộc văn minh như Hy Lạp, La Mã chẳng
hạn, triết học và luân lý rất cao mà cũng không phát sinh ra được một tôn