[Vvn dịch nghĩa:
“Người ta có ruộng đất,
Thì vua trái lại giành lấy.
Người ta có nhân dân,
Thì vua trái lại giựt lấy”. (Goldfish).
Trong sách in là chiền (ĐCVHSTQ cũng in là chiền). Tôi tạm sửa lại là
triền theo phiên âm chữ
廛 của Thiều Chửu. (Goldfish).
不稼不穡,胡取三百廛兮? 不狩不猎,胡瞻爾庭有懸貆兮?
[Nguyễn Hiến Lê dịch:
“Kẻ kia chẳng cấy chẳng cày,
Lúa đâu chứa vựa được đầy ba trăm?
Kẻ kia chẳng bắn chẳng săn,
Sao treo lủng lẳng trong sân muôn chồn?”.
Theo ĐCVHSTQ, tr.76-77. (Goldfish)]
碩鼠, 碩鼠, 無食我黍, 三歲貫女, 莫我肯顧.
[Vvn dịch nghĩa:
“Con chuột to! Con chuột to!
Chớ ăn lúa của ta.
Ba năm ta đã biết cái thói của mày.
(Mày) chẳng biết đoái nghĩ ta có bằng lòng không”. (Goldfish)]
瑣兮尾兮,流離之子
念我獨兮, 憂心殷殷
Chu nghèo lần vì phong đất cho các vương hầu, công khanh… còn lại
rất ít đất nên chỉ trông vào sự cống hiến của các chư hầu, mà chư hầu thì
như nước Lỗ, trong 242 chỉ triều cống có ba lần. Một phần vì thấy vậy mà
Tần sau này bỏ chế độ phong kiến.