trong nó được), dựng nên một học thuyết rực rỡ gồm những điểm chính
dưới đây:
- Vũ trụ luôn luôn tiến hoá. Vạn vật lúc đầu cùng một loại, sau lần lần biến
đổi để thích hợp hoàn cảnh, do đó mới khác nhau. Sự biến đổi đó không
ngừng, dường như thình lình và mau. “Vạn vật giai chủng
dã”. “Vật
chi sinh dã, nhược sậu nhược trì, vô động nhi bất biến, vô thời nhi bất di”
- Vạn vật đều ngang nhau, không có lớn nhỏ, sang hèn; phải quấy, tốt xấu
cũng không có vì hết thảy đều là tương đối cả; mà vật nào cũng có bản tính
của mình mà biến hoá. Vật có loài thọ cả ngàn năm, có loài thọ có một
năm, một ngày, nhưng đều là sống hết cái tuổi tự nhiên của nó mà thôi.
Chim có con bay được cả ngàn dặm rồi mới nghỉ, có con chỉ bay được vài
chục dặm đã phải nghỉ, cũng là bay hết sức tự nhiên của nó mà thôi. Người
sống ở dưới bùn thì đau ốm, con trạch thì không vậy. Người ở trên cây thì
run sợ, con khỉ thì không vậy. Thế thì người kém trạch hay hơn trạch, kém
khỉ hay hơn khỉ?
Mỗi vật có cái hợp với nó, không thể nhất thiết như
nhau được, mà cũng không thể phân biệt hơn kém được.
Tư tưởng hoài nghi đó đưa tới tư tưởng tự do và bình đẳng tuyệt đối, trọng
cá nhân tới tuyệt đối, vô vi tới tuyệt đối.
Hạnh phúc của vạn vật, của con vật là thuận cái bản tính của mình mà hoà
hợp với vũ trụ. Vì vậy ông rất ghét chính trị, coi các chính trị gia đương
thời như Lỗ Hầu hết. Ông đặt ra ngụ ngôn này: Lỗ Hầu bắt được con chim
biển, thích lắm, đem nuôi ở trong miếu đường, bắt các quan tấu nhạc cho
nó nghe, làm thịt cá cho nó ăn, chuốc rượu cho nó uống; nhưng nó cứ ủ rũ,
không ăn uống gì cả, ba ngày sau nó chết. Cái hại của xã hội là bắt mọi
người vào trong một khuôn nếp; không để cho mọi người theo bản tính tự
nhiên của mình.