Họ chia tri thức luận làm ba loại: do nghe mà biết (họ cho là văn), do suy
luận mà biết (họ gọi là thuyết), do từng trải mà biết (họ gọi là thân).
Trước Dương Vương Minh trên ngàn rưỡi năm, họ đã chủ trương tri hành
hợp nhất rồi, vi cùng tri nghĩa là sự làm đưa cái biết đến tận độ, nhưng cái
biết, cái “tri” đó thường bị lòng dục che lấp, nên muốn “biết” cho suốt để
“làm” cho hợp đạo thì phải làm chủ được lòng dục.
Họ bàn về phương pháp căn bản của sự biện luận: phải xét hiện tượng của
muôn vật, so sánh sự quan hệ giữa những hiện tượng với nhau, rồi dùng
ngôn ngữ, văn tự mà bày tỏ; như vậy là dùng danh nhắc thực, dùng từ bày
ý, dùng thuyết tỏ cớ (tức tỏ nguyên nhân gây ra hiện tượng).
Họ lại mở đường cho ngữ pháp học, luận lý học, muốn dùng lý trí để quan
sát, giải thích vũ trụ; trái hẳn với phái Biện giả mà họ chống đối kịch liệt, vì
phái này dùng nguỵ biện cốt làm cho người khác không cãi được mình, chứ
không cần ai tin mình. Bọn Biện giả sau gọi là Danh gia, tức các triết gia
dùng cái danh mà định nghĩa mà định nghĩa, mà suy luận – gồm có Công
Tôn Long, có lẽ cả Huệ Thi nữa. (Nhưng theo Hồ Thích thì Huệ Thi có
nhiều tư tưởng khoa học mà đương thời ít ai hiểu được, chứ thực không
phải là một nhà nguỵ biện).
Như trên chúng tôi đã nói, Huệ Thi có thuyết phiếm ái, thuyết đại nhất, tiểu
nhất, thuyết tiểu đồng dị, đại đồng dị. Ông bảo trời đất cũng thấp như nhau,
mặt trời cũng vừa đứng bóng cũng vừa xế bóng, phương Nam vô cùng mà
hữu cùng, mới nghe thấy ngược đời; nhưng theo cách giải thích của Hồ
Thích, thì đều diễn những chân lý này về khoa học: không thể phân tích về
không gian, thời gian được, sự giống nhau khác nhau giữa các sự vật chỉ là
tương đối. Hình như Huệ Thi còn nhận được rằng quả đất tròn và xoay tròn
nữa, nên mới bảo: “Chính giữa thiên hạ ở nước Yên, mà lại ở phía nam
nước Việt”
(Ngã tri thiên hạ chi trung ương, Yên chi bắc, Việt chi nam
thị dã
); “Phương nam không có chỗ cùng tận mà cùng tận” (Nam