mấy thế kỷ loạn lạc lầm than, rất tin ở dị đoan.
Trong Đạo Đức kinh có những câu “Tử nhi bất vong giả thọ”, “Thâm căn
cố đế, trường sinh cửu thị chi đạo
“ (Chết mà không mất là thọ), (Cái
đạo gốc sâu rễ bền sống lâu mà trông xa mãi mãi) dễ làm cho dân chúng
hiểu lầm, tin rằng có phép trường sinh; rồi người ta tìm thêm trong Âm
dương học những các để điều hoà âm dương, lấy trộm cái huyền vi của trời
đất chế ra cách luyện đan, cách luyện “tinh”, “khí”, “thần” để được bất tử.
Chính Tần Thuỷ Hoàng cũng cần “tiên đan”, hăng hái hơn ai hết. Như vậy
Lão giáo đã biến thành Đạo giáo, rồi lâu dần từ này đồng nghĩa với Lão
giáo.
Tới Nho học cũng pha lẫn với Âm dương học. Đổng Trọng Thư đưa Nho
học lên địa vị độc tôn (trước kia, Khổng Tử chỉ là một vị sư (thầy) nay đã
thành một vị thánh) mà cũng có rất nhiều tư tưởng có vẻ huyền bí dị đoan.
Ông đưa kiến nghị dùng Nho giáo làm quốc giáo và Hán Vũ Đế chấp thuận
liền. Có lẽ vì Vũ Đế thấy những thuyết thế, thuật, pháp của Hàn Phi dùng
để thống nhất quốc gia thì được, chứ dạy dân thì không được. Mà trong
những học thuyết khác (Khổng, Lão, Mặc) thì chỉ có Khổng là vừa tôn
quân, vừa thiết thực, vừa bàn rộng về nhiều vấn đề hơn cả. Khổng chủ
trương trung hiếu, lợi cho quân chủ; còn chủ trương “dân vi quí, quân vi
khinh” của Mạnh Tử thì không làm lung lay được ngai vàng, một khi ngai
vàng đó đã được các thuật trị quốc của Pháp gia củng cố. Vả lại Đổng
Trọng Thư thờ Khổng chứ không theo Mạnh. Lúc đó, Mạnh và Tuân địa vị
còn ngang nhau, từ đời Đường, Mạnh mới được trọng.
Tóm lại, từ đời Hán trở đi, về phương diện chính trị, Nho liên kết với Pháp;
riêng trong đời Hán, về phương diện học thuật, Nho pha với Âm dương
học, Lão học mà giữ địa vị độc tôn và phát minh được tượng số học.
Dưới đây chúng tôi tóm tắt học thuyết của ba nhà: Đổng Trọng Thư, Dương