kiện đó để độc giả hiểu nguyên do sự phản lại Đạo học ở đầu đời Thanh.
Dân tộc Trung Hoa trong đời Thanh cực khổ trăm chiều. Mới đầu họ bị
người Mãn ức hiếp, phải cạo tóc, gióc bím, ăn mặc theo Mãn; cuối đời
Thanh, họ lại bị người Âu coi như một con thịt, tha hồ cắt xén, chia xẻ,
cướp hết “tô giới” này tới tô giới khác, hết tài nguyên này tới tài nguyên
khác. Nên các triết gia của họ không thể tĩnh toạ mà suy luận về tâm, tính,
thái cực, thái hư được nữa. Người ta buộc phải nghĩ đến thực tế.
Do đó, triết học đời Thanh có những sự biến chuyển lớn. Đời Thanh sơ,
người ta còn lưu luyến một chút với Đạo học đời Tống, Minh – đại biểu là
Hoàng Tôn Hi Vương Phu Chi – đồng thời một số quay về Nho học đời
Hán – Cố Viêm Võ – rồi hướng Triết học về phần thực học, quan sát, duy
vật. Trong thời đó, triết học vẫn còn giữ được bản sắc của Trung Quốc.
Qua Thanh mạc, sau vụ chiến tranh nha phiến, sự tiêm nhiễm văn hóa
phương Tây và sự xâm lăng của các cường quốc phương Tây làm nảy nở
một phong trào mới, phong trào duy tân, mà đại biểu là Khang Hữu Vi,
Đàm Tự Đồng: Những nhà này muốn dung hoà tư tưởng của Khổng học
với tư tưởng Âu Tây, dùng lời Khổng, Mạnh để giải thích quan niệm về
chính trị của phương Tây, mở đường cho cuộc cách mạng Tân Hợi và sự
Âu hoá của Trung Hoa. Dưới đây chúng tôi sẽ lần lượt xét qua hai phong
trào đó và giới thiệu những triết gia quan trọng nhất.
Hoàng Tôn Hi
(đầu đời Thanh) là môn đệ xa của Vương Dương Minh, vẫn
còn giữ tâm học, cho rằng sự lưu hành biến hoá của trời đất là do cái khí;
mà chủ tể cái khí là cái lý. Ông khuyên phải nuôi cái khí để giữ cái lý cho
được thuần, muốn vậy phải “thận độc”, đừng để những ý xấu phát động
trong tâm.
Như vậy, về tâm học, ông chỉ lập lại những tư tưởng của người trước. Sở
đắc của ông là phần tư tưởng chính trị. Ông thấy chế độ quân chủ của Tần,