đến việc thực hành”. “Những cái huyền lý về tính, mệnh, chẳng cần giảng
làm gì. Dù có giảng, người ta cũng chẳng chịu nghe; dù có nghe chăng nữa,
người ta cũng chẳng hiểu được; dù có hiểu chăng nữa, người ta cũng chẳng
thực hành được”.
Ông thâm oán các vị “thánh hiền” trong đạo học, giọng phẫn uất, lâm ly:
“Đời trước có mấy chục thánh hiền, mà trên thì chẳng có công phù nguy
cứu nạn, dưới chẳng có tài làm tể tướng hoặc cầm quân, hai tay đem dâng
nước cho rợ Kim; đời sau, cũng có mấy chục thánh hiền, mà trên thì chẳng
có công phù nguy cứu nạn, dưới chẳng có tài làm tể tướng hoặc cầm quân,
hai tay dâng nước cho rợ Nguyên; những đời đa thánh, đa hiền mà như vậy
ư?”.
Đến cái học khảo cứu của phái Cố Viêm Võ cũng bị ông công kích: “Người
nào nhận sự đọc sách làm sự học, vốn không phải là theo cái học của
Khổng Tử; mà lấy các học đọc sách để giải nghĩa sách, cũng không phải là
theo cái học của Khổng Tử”.
Ông chỉ chú trọng tới thực học, luyện những đức như nhân, nghĩa, trí, hiếu,
mục; và tập những nghề như lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số.
Ông khuyên ta đừng để cho lòng bị vật dục che lấp mà phải nhiễm những
thói hay vì ông tin rằng tin rằng tính của người ta vốn thiện, sở dĩ ác là vì bị
tư dục làm mờ tối cái tâm, và bị nhiễm lâu những tật xấu. Theo ông, khí và
lý là một; khí mà ác thì lý cũng phải ác, khí mà thiện thì lý cũng phải thiện.
Và dù luyện đức hay học nghề thì cũng phải tập hàng ngày. Học là tập. Hễ
giảng xong thì phải tập, công giảng thì có chừng, công tập thì không bao
giờ xong. Đọc sách không phải là học, làm việc mới là học (ông đã thực
hành lời ông dạy: vừa viết sách, vừa cày ruộng). Ngoài sự làm việc ra,
không có việc gì là học vấn. Làm việc thì không còn nghĩ bậy nữa, như vậy
là làm việc là luyện đức: “Ta hết sức theo đuổi việc cày, không kịp ăn,