ca tọa nguyệt” (
行歌坐月) v.v., về cơ bản có hình thức giống với kiểu “chợ
tình” ở Sapa.
Người Hán gốc Bách Việt vùng Phúc Kiến (Mân Việt) và Quảng Đông
(Nam Việt) có một tập tục được cho là có liên quan: tục “không lấy chồng”
(cho đến giữa tk. XX vẫn còn phổ biến). Ở đó, nhiều phụ nữ liên kết với nhau
thành “hội”, “nhóm” thân hữu, cùng sinh hoạt với nhau và cùng nhau sống độc
thân
.
Một số tộc người phương Nam cho đến tk. XX vẫn còn tục hôn nhân theo
nhóm gia tộc. Chẳng hạn, W. Eberhard [1968: 178] ghi nhận người Choang và
người Dao ở Quảng Tây (Âu Việt) có hiện tượng trai, gái hai làng hoặc hai gia
đình kết hôn với nhau. Một số vùng khác có tục nội hôn (hôn nhân con chú con
bác, cross-cousin marriage), song dưới sức ép của hậu quả hôn nhân cận huyết
và quan niệm xã hội, tập tục này dần mất đi. Ở Bắc Bộ Việt Nam, hiện tượng
giao kết trong hôn nhân giữa hai làng kế cận cũng không phải là hiếm. Tương
tự, tục nối dây (nối nòi, chuê- nuê) từng rất phổ biến ở các tiểu vùng Lĩnh
Nam.
Ngoài ra, cư dân Bách Việt cổ và nhiều nhóm hậu duệ về sau có thuật “ma
thuật yêu đương” (love magic) nhằm nâng cao đời sống vợ chồng. Vùng Nam
Hải (Quảng Đông) và một số nơi ở Phúc Kiến có thói quen ăn con nặc
long (
诺龙) và loài sâu đất chuyên giao hoan đúng vào ngày 5 tháng năm âm
lịch. Nhiều vùng giữ tục ăn thịt cóc, thịt chim ác là (biểu trưng cho sự chung
thủy) để thể hiện ước vọng hạnh phúc gia đình.
Ở phong tục tang ma, hình thức mai táng quan trọng nhất nội vùng Lĩnh
Nam là thổ táng xuất phát từ quan niệm đất là người mẹ vĩ đại nhất (xem Văn
hóa nhận thức). Sau thổ táng là huyền táng.
Ở hình thức thổ táng, khác mộ gò Dương Tử, Lĩnh Nam phổ biến dạng mộ
huyệt đất, mộ chum, mộ huyền táng.
Có thể nói tục mộ huyệt đã xuất hiện rất sớm trong văn hóa người Việt vùng
Đông Việt, Nhị Hồ và Lĩnh Nam. Các phát hiện mộ táng kiểu này có niên đại
cách đây bốn, năm ngàn năm tại các di chỉ Đàn Thạch Sơn (Phúc Kiến), Ngô
Thành (Thanh Giang, Giang Tây), Thạch Hiệp (Quảng Đông) và rải rác ở