từng khẳng định địa vực Lạc Việt rộng lớn, gồm cả tiểu vùng Đông Nam nói
trên, Bắc Bộ Việt Nam cộng với cả vùng tây nam Quảng Tây, đông nam Vân
Nam. Trong luận án này, chúng tôi chủ yếu bàn tới đồng bằng sông Hồng-sông
Mã và vùng núi và trung du phía Bắc (tức vùng văn hóa Tây Bắc và Việt Bắc
của Việt Nam).Hai tuyến di cư vào Lĩnh Nam của người Ngô Việt [Trịnh Tiểu
Lô 2007: 237]
Sách Thủy Kinh Chú dẫn cuốn Giao Châu Ngoại Vực Ký viết “Thời Giao
Chỉ chưa có quận huyện, đất có lạc điền, dân theo thủy triều lên xuống mà làm
ruộng nên gọi là lạc dân”
. Trong tiếng Việt hiện vẫn còn câu nói “Âu rừng
Lạc biển” hoặc “Âu bắc Lạc nam”. Truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ dù
xuất hiện muộn song cũng phảng phất sự phân biệt Âu và Lạc. Hiện có thuyết
cho từ Lạc (
駱) xuất phát từ tên gọi “nước” trong tiếng Việt cổ (nước: nác €
Lác € Lạc) [Vũ Thế Ngọc 2005]. Ngoài ra cũng có các quan niệm cho “Lạc”
(
駱) bắt nguồn từ “Lúa hay Ló”, “loài ngựa bờm trắng”, “cháy rần rật hay trôi
cuồn cuộn” [Nguyễn Duy Hinh 2004:56-59] v.v.. Cư dân Lạc Việt cổ là chủ
nhân của nền văn hóa Phùng Nguyên với đỉnh cao là văn minh Đông Sơn thời
kì giữa và cuối thiên niên kỷ I trCN.
Tuy vậy, thành phần tộc người Lạc Việt phức tạp nhất trong số các chi tộc
Bách Việt ở Lĩnh Nam. Thứ nhất, do vùng này tiếp giáp với vùng Vân-Quý của
Bách Việt và khu vực còn lại ở Đông Nam Á lục địa nên quá trình giao thoa
tộc người và văn hóa diễn ra liên tục. Tiếng Việt-Mường hình thành trên cơ sở
của sự tổng hợp Môn-Khmer, Tày-Thái (trong đó có cả yếu tố Nam Đảo và
Australoid) là một minh chứng [Phạm Đức Dương 1983: 76-133]. Thêm vào
đó, nhiều nét tương đồng giữa trống đồng Đông Sơn và trống đồng Điền Việt
trên đất Vân-Quý phần nào phản ánh được vai trò cầu nối của hệ thống sông
Hồng cũng như tính đa dạng của văn hóa tộc người trong vùng
.
Bảng 1.3: So sánh điều kiện dân cư và văn hóa các tiểu vùng Lĩnh Nam