nắm. Sau khi tay đã có việc riêng thì não, theo qui luật hỗ-tương quan-hệ,
cũng phát triển, mà tư tưởng của người bắt đầu phôi thai. Nhờ có não để suy
nghĩ, nhờ có tay để làm việc, và nhờ sự hợp quần công tác, người ta có thể
dùng sức một cách tích-cực để giữ gìn và bồi đắp sự sống giữa những áp
bách của hoàn cảnh tự nhiên. Văn-hóa tức là gồm tất cả những lực lượng của
người dùng để bảo trì và phát-triển sinh mệnh vậy.
Ngay từ khi thủy tổ của loài người mới biết cầm hòn đá rắn để đập một
trái cây vỏ cứng hay biết dùng cái cành cây nhọn để đào một củ khoai là
văn-hóa đã xuất hiện. Kịp đến khi người ta biết đẽo đá thành khía sắc và vót
cành cây để làm đồ dùng, nghĩa là không những chỉ biết lợi dụng những vật
tự nhiên sẵn có, mà còn biết sửa đổi những vật tự nhiên cho vừa việc cần, thì
những nỗi khổ sở của người ở giữa tự nhiên ác liệt đã giảm ít nhiều, văn-hóa
của người đã tiến bộ một bước dài lắm. Để chống cự ác thú, để săn bắn
muông chim, để bắt cua đánh cá, người ta đã tạo ra nhũng búa, dùi, cung,
tên, chài lưới ; để che thân khỏi nóng lạnh, người ta đã tạo ra quần áo ; để
cho khỏi gió mưa, người ta đã biết cách kết lều lợp túp. Người ta lại tìm ra
được lửa là điều phát minh oanh liệt rực rỡ nhất trong lịch sử. Kể từ khi tay
mới biết cầm, đến khi người ta biết dùng lửa để nướng đồ ăn và sưởi cho
ấm, là đã trải qua biết bao nhiêu nghìn vạn năm rồi. So trình độ của người
dùng điện khí ngày nay với trình độ của người vượn Bắc-kinh mới biết dùng
lửa thì khác nhau như trời với vực, nhưng so con người vượn mới biết dùng
lửa với loài vượn giống người thì chúng ta lại thấy còn khác xa hơn.
Sau khi phát minh được lửa, công-cụ và kỹ-thuật để làm việc của người
càng tiến bộ mau hơn trước. Nhờ lửa mà người ta biết dùng đồng vàng, đồng
xanh, rồi đến sắt. Khi đã biết dùng kim thuộc làm vật liệu để thay cho gỗ và
đá thì trạng-thái sinh-hoạt của người đã dễ dàng nhiều. Bấy giờ người ta
không nơm nớp sợ mãnh thú vì đã có vũ khí tinh xảo và sắc bén. Nhờ thuật
kiến trúc phát đạt nên không phải ở hang lỗ, hoặc ở túp lều chật hẹp trống
trải như xưa nữa. Người ta cũng không sợ lạnh, mà có thể ở tản mác khắp
mặt địa cầu, chứ không phải khu khu ở vùng nhiệt đới nữa. Nhờ sự chăn
nuôi và trồng trọt, sự kiếm đồ ăn không đễn nỗi phó cho may rủi như trước