phòng khác, xác định thứ mùi, trừ Erlendur vì khứu giác của ông cực kỳ
kém sau nhiều năm hút thuốc.
“Khi tôi đến đây lần đầu tiên,” Elínborg nói, “tôi đã nghĩ rằng một tòa
nhà hoặc căn hộ như thế này hẳn phải dành cho những người nuôi ngựa. Cái
mùi làm tôi nghĩ đến ngựa, những chiếc ủng đi ngựa, yên ngựa, hoặc những
thứ đại loại như vậy. Cả phân ngựa. Chuồng ngựa nữa, thực sự là vậy. Cái
mùi đó giống như cái mùi trong căn hộ đầu tiên mà vợ chồng tôi mua.
Nhưng cũng chẳng có ai yêu ngựa sống ở đó cả. Đó là một hỗn hợp của rác
rưởi và ẩm thấp. Cái lò sưởi đã rỉ ra đến tận thảm và ván lót sàn nhưng
chẳng ai làm gì cả. Chúng tôi đã cho sửa chữa phòng tắm nhưng những
người thợ sửa ống nước đã làm ăn rất cẩu thả, chỉ nhét rơm vào cái lỗ và
trát một lớp bê tông mỏng lên đó. Vì thế lúc nào trong nhà cũng có mùi
cống rãnh bốc lên từ vết sửa chữa.”
“Điều đó có nghĩa là?” Erlendur hỏi.
“Tôi cho là ở đây cũng có mùi tương tự, có lẽ còn tệ hơn. Ẩm thấp, rác
rưởi và chuột cống.”
“Tôi đã gặp Marion Briem,” Erlendur nói, không chắc là họ biết cái tên
đó. “Tình cờ bà ta đọc được thông tin về Nordurmýri và đi đến kết luận
thực tế nơi đây là một đầm lầy.”
Elínborg và Sigurdur Óli liếc nhìn nhau.
“Nordurmýri từng là một làng tách biệt ở giữa Reykjavík,” Erlendur nói
tiếp. “Những ngôi nhà được xây dựng trong hoặc chỉ ngay sau chiến tranh.
Iceland trở thành một nước Cộng hòa và họ đặt tên đường phố theo tên
những anh hùng trong tiểu thuyết, Gunnarsbraut, Skeggjagata và đại loại
như vậy. Nó là nơi tụ tập đủ mọi thành phần, từ những người khá giàu, thậm
chí là giàu, cho đến những kẻ chẳng có lấy một xu, do đó họ thuê những