đại học đó. Bà van nài cậu cho nó cơ hội thứ hai, quả quyết với cậu
rằng hẳn phải có những chàng trai từ tầng lớp bình dân giống như cậu,
những đứa nhận học bổng giống như cậu, để cậu nhập bọn và kết bạn,
nhưng không điều gì mẹ cậu nói, dù đúng đến đâu, có thể làm thay đổi
ý định của cậu. Chỉ có hai người có thể khiến Coleman đổi ý một khi
cậu đã quyết định, cha cậu và Walt, và thậm chí họ gần như phải bẻ
gẫy ý chí của cậu mới có thể làm được chuyện đó. Nhưng Walt đã
tham gia Lục quân Mỹ và đang đóng quân ở Ý, và cha cậu, người mà
Coleman từng luôn phải xoa dịu bằng cách làm theo lời ông, thì không
còn ở đó để oang oang ra lệnh về bất cứ chuyện gì nữa.
Dĩ nhiên cậu khóc tại đám tang và hiểu rõ mức độ lớn lao của cái
thứ, không một lời cảnh báo trước, đã bị tước đi khỏi tay cậu. Khi ông
mục sư đọc, bên cạnh những đoạn trong Kinh Thánh, một đoạn của vở
Julius Caesar trong tuyển tập kịch Shakespeare mà cha cậu rất yêu
quý - cuốn sách khổ lớn đóng bìa da mềm mà, khi Coleman còn là cậu
nhóc, luôn luôn khiến cậu nhớ đến một giống chó cộc nhỏ lông vàng -
đứa con trai cảm thấy vẻ uy nghiêm của cha nó như chưa bao giờ cảm
thấy trước đây: sự vĩ đại nơi lúc thăng cũng như trầm của ông, sự vĩ
đại mà, là một sinh viên năm nhất mới vừa rời khỏi cái xó nhỏ bé của
mình ở East Orange chưa đầy một tháng, Coleman đã bắt đầu mơ hồ
nhìn ra nó đúng như bản chất của nó.
Những kẻ hèn nhát đã chết trăm lần trước khi tắt thở;
Người can đảm chỉ chết duy nhất một lần.
Trong mọi điều kỳ lạ mà tôi đã từng nghe,
Kỳ lạ nhất là người ta phải sợ hãi;
Thấy cái chết, một kết thúc tất yếu,
Sẽ đến khi nó phải đến.
Từ “can đảm”, khi mục sư ngâm lên, đã tước mất ở Coleman nỗ lực tỏ
ra điềm tĩnh, tự chủ đầy khắc kỷ, và phơi trần nỗi mong nhớ của đứa