sống. Nó là một thứ nhại giễu loại hồi ký tự biện minh. Một lời giải
thích vô vọng.” Mỉm cười, ông nói, “Kissinger có thể vãi ra một ngàn
bốn trăm trang thứ này hai năm một lần, nhưng nó đã đánh bại tôi. Dù
có vẻ như tôi cũng chìm nghỉm một cách mù quáng trong cái bong
bóng ái kỷ, tôi thực sự không bì được với ông ta. Tôi bỏ cuộc rồi.”
Giờ đây, hầu hết các tác gia đều bị chững lại sau khi đọc lại công
trình của hai năm trời - thậm chí là của một năm, hay chỉ nửa năm - và
nhận thấy nó lầm lạc một cách vô vọng và phải hạ cái máy chém phê
bình xuống cổ nó, đều rơi vào trạng thái tuyệt vọng những muốn tự tử
mà phải mất nhiều tháng mới phục hồi lại được. Nhưng Coleman,
bằng việc từ bỏ một bản thảo tồi tệ như bản thảo ông vừa hoàn tất, đã
xoay xở cách nào đó để vượt thoát không chỉ khỏi cuốn sách thảm họa
đó mà còn cả cuộc đời thảm họa của ông. Không còn cuốn sách nữa,
giờ đây ông dường như không còn mảy may chút khao khát đính chính
với mọi người; gạt bỏ hết thèm muốn rửa sạch thanh danh và khoác
cho đối thủ cái danh giết người, ông không còn ướp mình trong cảm
giác bất công nữa. Ngoài việc xem Nelson Mandela, trên ti vi, tha thứ
cho những kẻ cầm tù ông cả khi ông rời khỏi nhà tù với bữa ăn tù
khốn khổ cuối cùng vẫn đang được hấp thu vào cơ thể, trước đây tôi
chưa từng thấy một sự thay đổi quan điểm nào chuyển hóa được một
con người bị đọa đày nhanh chóng đến vậy. Tôi không hiểu được điều
đó, và mới đầu tôi cũng không thể tự mình tin nổi.
“Rũ áo ra đi như vầy, có thể vui vẻ nói, ‘Nó đã đánh bại tôi,’ rũ áo
ra đi khỏi toàn bộ vụ việc này, toàn bộ nỗi thù ghét này - làm sao ông
lấp đầy được cái khoảng trống oán hận ấy?”
“Tôi không lấp.” Ông lấy ra bộ bài với tập giấy để ghi điểm và
chúng tôi kéo ghế đến chỗ mặt bàn không ngập ngụa giấy tờ. Ông xào
bài và tôi kinh và ông chia. Và sau đó, trong trạng thái mãn nguyện
yên bình, kỳ cục do được giải phóng, có vẻ là vậy, khỏi việc coi
thường mọi người tại Athena, những kẻ, một cách cố tình và có ý đồ
xấu xa, đã xét đoán sai lầm, bạc đãi, và bôi nhọ ông - đã đẩy ông,