“Nếu nó biết chị muốn bắt nó, nó sẽ không xuống đâu,” cô gái kia
nói, và, dùng cái kẹp, gắp lên một con chuột nữa từ khay đựng chuột
chết và chìa ra cho con rắn lúc đó rốt cuộc đã nuốt gọn, từng milimét
một, nguyên con chuột vừa rồi. “Nếu nó biết chị đang cố bắt nó, nó sẽ
đứng ngoài tầm với của chị, nhưng nếu nó nghĩ chị không để ý nó, nó
sẽ mò ra.”
Họ cùng bật cười trước cách cư xử chẳng khác gì con người đó.
“Được rồi,” Faunia nói. “Tôi sẽ để nó yên một lát vậy.” Cô bước tới
chỗ cô gái đang ngồi cho rắn ăn. “Tôi yêu quạ. Chúng là loài chim ưa
thích của tôi. Cả loài raven nữa. Tôi từng sống ở Seeley Falls, vì thế
tôi biết rõ về Hoàng Tử. Tôi biết nó khi nó ở đó lẩn quẩn quanh cửa
hàng Higginson. Nó thường ăn cắp kẹp tóc của mấy bé gái. cắp ngay
bất cứ thứ gì lấp lánh, bất cứ thứ gì màu mè. Nó nổi tiếng vì chuyện
đó. Trước từng có những mẩu báo viết về nó được cắt ra trưng ở đây.
Chỉ xoay xung quanh nó và những người nuôi nó sau khi tổ của nó bị
phá và việc nó trở thành một nhân vật quan trọng ở cửa hàng ra sao.
Đuợc ghim ngay đó,” cô nói, chỉ về phía bảng tin treo ngay lối vào
phòng. “Mấy bài báo đó đâu rồi?”
“Nó rứt xuống hết rồi.”
Faunia phá ra cười, lần này dữ dội hơn lần trước nhiều. “Nó rứt
chúng xuống?”
“Bằng mỏ nó đó. Rỉa nát luôn.”
“Nó không muốn ai biết về lai lịch của nó đó! Xấu hổ về lai lịch của
nó đó! Hoàng Tử!” cô gọi, quay về phía cái lồng với cửa lồng mở
toang. “Mày xấu hổ vì quá khứ tai tiếng của mày hả? Ôi, một anh
chàng ngoan. Mày đúng là con quạ ngoan.”
Giờ cô chú ý đến một trong những con thú nhồi bày rải rác trên
những giá quanh phòng. “Kia là con mèo rừng hả?”
“Phải,” cô gái đáp, kiên nhẫn chờ con rắn kết thúc việc thè lưỡi về
phía con chuột chết mà đớp lấy nó.