những lỗ này được khoan bằng cái dụng cụ đang nằm cách cái xô vàng
của hắn ta vài bước, cái xô thực ra là một thùng đựng chất tẩy rửa cỡ
hai chục lít. Máy khoan đó gồm một tay cầm kim loại dài hơn một mét
tận cùng là một đoạn lưỡi khoan ruột gà hình trụ, một thứ công cụ
chán chết, đáng gờm mà mũi khoan bề thế của nó - xoay bằng cách
quay cái cần ở đầu trên - lấp lánh trong nắng như còn mới nguyên.
Một cái máy khoan thứ thiệt.
“Thế là được rồi,” hắn lầm bầm. “Cho qua ngày ấy mà.”
Cứ như thể tôi không phải người đầu tiên mà là người thứ năm
mươi ngẫu nhiên lang thang ra lưng chừng mặt băng trên một cái hồ
cách con đường làng năm trăm mét trên một vùng cao nguyên nông
thôn để hỏi về chuyện câu cá. Vì hắn đội một cái mũ len đen kéo
xuống trùm kín trán và phủ cả hai tai, và hắn có chòm râu bạc và ria
mép khá rậm, nên khuôn mặt chỉ lộ ra một dải hẹp. Nếu có gì đáng
chú ý thì đó là cái khoảng ấy kéo dài sang hai bên - trên trục ngang,
một khoảng mặt hình chữ nhật hở ra. Đôi mày đen sậm của hắn dài và
rậm, mắt hắn màu xanh và cách xa nhau một cách lạ lùng, trong khi
nằm giữa ngay trên hàng ria mép là cái mũi tẹt chưa phát triển của trẻ
con. Chỉ trong cái dải hẹp mà Farley bày ra giữa cái miệng có ria và
mũ trùm len, đủ mọi loại quy luật cùng song hành, cả hình học lẫn tâm
lý học, và chẳng cái nào ăn nhập với cái nào.
“Chỗ này đẹp đấy,” tôi nói.
“Vậy tôi mới tới đây.”
“Bình yên.”
“Gần với Thượng đế,” hắn nói.
“Sao? Anh thấy vậy à?”
Lúc này hắn trút bỏ cái sắc cạnh ở ngoài rìa, lớp vỏ phủ trên sự
hướng nội của hắn, trút bỏ cái tâm trạng tôi lúc trước khi tôi đến, và
trông cứ như hắn sẵn sàng giao tiếp với tôi chứ không chỉ coi đây là
một sự sao nhãng vô nghĩa. Tư thế của hắn không thay đổi - vẫn hoàn