toàn mang vẻ câu cá hơn là tán gẫu - nhưng ít nhất một phần nhỏ của
cái vẻ khó gần đã bị bào mòn bớt bởi một giọng nói ấm áp hơn, trầm
ngâm hơn những gì tôi mong đợi. Tư lự, thậm chí bạn có thể gọi nó
như vậy, tuy là theo một kiểu lững lờ khủng khiếp.
“Nơi này ở mãi trên đỉnh một ngọn núi,” hắn nói. “Không có nhà
cửa quanh đây. Không chỗ trú. Không có nhà chòi nào trên hồ.” Sau
mỗi lời nói, là một khoảng dừng u ám - một lời bình luận mang tính
tuyên ngôn, rồi im lặng dồn nén. Chẳng ai đoán được, vào cuối mỗi
câu nói, liệu hắn đã nói xong với bạn chưa. “Không có nhiều hoạt
động ở đây. Không có nhiều tiếng ồn. Cái hồ chừng một cây số vuông.
Không có cái bọn kè kè mũi khoan điện. Không có tiếng ồn với mùi
xăng kinh tởm của bọn đó. Một cây số vuông chỉ toàn đất trống và
rừng. Thật là một nơi đẹp đẽ. Chỉ có bình yên và im lặng. Lại sạch
nữa. Thật là một nơi sạch sẽ. Cách xa hẳn mọi bon chen, tất bật và
điên rồ đang diễn ra không dứt.” Sau cùng là cái ngước nhìn lên để
quan sát tôi. Để đánh giá tôi. Một cái nhìn rất nhanh mà chín mươi
phần trăm là sự tối tăm bất khả dò thấu và mười phần trăm cởi mở một
cách đáng ngại. Tôi không thể biết xem liệu có chút khôi hài nào trong
người đàn ông này không.
“Chừng nào tôi còn giữ kín được chỗ này,” hắn nói, “nó sẽ vẫn còn
nguyên như vậy.”
“Cũng đúng,” tôi nói.
“Bọn chúng sống ở thành phố. Bọn chúng sống trong cảnh bon chen
và tất bật của công việc hằng ngày. Sự điên rồ trên đường đi làm. Sự
điên rồ ở chỗ làm. Sự điên rồ trên đường từ chỗ làm về đến nhà. Giao
thông. Kẹt xe. Bọn chúng bị mắc vào đó. Tôi thì thoát được.”
Tôi không cần hỏi “bọn chúng” là ai. Có thể tôi sống xa mọi thành
phố thật đó, có thể tôi không hề sở hữu một máy khoan điện, nhưng
tôi là bọn chúng, tất cả chúng ta là bọn chúng, tất cả mọi người ngoại
trừ gã đàn ông ngồi xổm trên mặt hồ này nhấp nhấp cây cần câu ngắn
trên tay và nói chuyện với một cái lỗ trên mặt băng, hắn chủ ý nói với