tiền thuế của nhân dân, rồi nghĩ đến hai tay phi công đó, chúng nó
tham gia một đợt không kích cảng Hà Nội, tụi nó bị bắn tơi tả, và
chúng tôi nhận được tín hiệu qua radio. Tụi tôi thậm chí còn chẳng
phải trực thăng cứu nạn, nhưng tụi tôi đang ở gần đó, còn tụi nó đang
phát tín hiệu cầu cứu rằng tụi nó sắp phải nhảy dù bỏ máy bay, vì tụi
nó đang ở độ cao mà nếu không nhảy dù ngay thì máy bay sẽ đâm
xuống đất. Tụi tôi đâu phải trực thăng cứu nạn - tụi tôi là trực thăng
chiến đấu - tụi tôi chỉ tóm lấy cơ hội cứu được hai mạng người. Thậm
chí tụi tôi cũng không được phép bay tới đó nữa, nhưng tụi tôi cứ đi
thôi. Ông sẽ hành động theo bản năng như thế đó. Cả lũ bọn tôi chỉ
nhất trí làm thôi, hai xạ thủ, thằng phi công, thằng phụ lái, tuy cơ may
chẳng được bao nhiêu vì tụi tôi không có yểm trợ. Nhưng tụi tôi vẫn
lao vô như thường - cố đón được chúng nó.”
Hắn đang kể cho tôi một chuyện thời chiến, tôi thầm nghĩ. Hắn biết
mình đang làm chuyện đó. Hắn định đưa ra một nhận định. Một thứ gì
đó hắn muốn tôi mang theo, đến bờ hồ, đến chỗ xe của tôi, về căn nhà
hắn biết rõ vị trí, và hắn mong tôi hiểu rằng hắn biết hết. Mang theo
với tư cách một “nhà văn” sao? Hay với một tư cách khác - một kẻ
biết được bí mật của hắn, cái bí mật còn lớn lao hơn bí mật về cái hồ
này. Hắn muốn tôi biết rằng không có nhiều người thấy được những
điều hắn đã thấy, có mặt ở chỗ hắn từng có mặt, làm những việc hắn
từng làm và, nếu cần, hắn có thể làm lại lần nữa. Hắn đã giết người ở
Việt Nam và hắn đã mang kẻ sát nhân ấy cùng hắn trở về vùng đồi núi
Berkshire, cùng hắn trở về từ xứ sở của chiến tranh, xứ sở của kinh
hoàng, để đến cái nơi hoàn toàn không biết đến chiến tranh, biết đến
kinh hoàng.
Cái khoan nằm trên mặt băng. Sự thẳng thừng của cái khoan.
Không có hiện thân nào cho nỗi thù ghét của chúng ta lại cụ thể và
chân thực hơn ánh thép lạnh tàn nhẫn của cái khoan đó ở chốn hẻo
lánh này.