quái nào cả. Nhưng kẻ làm cho tôi sợ hãi lo lắng đến nỗi phải tìm đến làm
phiền nhiễu ông lại chính là một cụ già sống khỏe mạnh như ông với tôi
hiện giờ…
Trúc Tâm đã bắt đầu chú ý đến lời khách kể. Chàng đánh diêm, châm
điếu thuốc hút rồi nhẹ nhàng giục:
- Xin ông nói ngay vào chuyện.
Ba gật đầu, kể:
- Theo lệ thường, cứ 6 giờ chiều thì tôi từ sở về nhà, một căn gác ở tầng
hai, trong một tòa nhà lớn, thời xưa là biệt thự. Căn gác của tôi, nếu mở cửa
phía sau thì nhìn được xuống vườn, cây cối rậm rạp. Ở một góc vườn ấy, có
hai gian nhà hẹp, xưa là nhà ở của người làm vườn. Kề vào vách hai gian
nhà ấy lại có chiếc hầm nổi, xưa kia dùng làm nơi trú ẩn phi cơ Nhật, dựng
toàn bằng đá hộc nhưng cửa hầm bị sụt đổ, đã mấy năm nay, chẳng ai nhòm
ngó tới, vì biết chắc nơi ẩm thấp này đã thành một cái tổ lớn của rắn rết
rồi…
Như để sửa soạn cho câu chuyện có thứ tự và dễ hiểu, Ba ngừng lại chốc
lát rồi mới tiếp:
- Đã ba tháng nay, tôi mới đến ở đó được hơn một tháng, có một cụ già
đến hỏi thuê hai gian nhà ở góc vườn ấy. Cụ thuê cả hai gian và đến ở có
mỗi một mình. Theo lời cụ già nói - về sau chúng tôi mới biết tên thường
gọi của cụ là cụ Lang Sặt - thì gia đình cụ hiện ở cả tại làng Sặt. Và cụ
chuyên sống về nghề lang thuốc, cha truyền con nối đã mấy đời nay! Hai
gian nhà ấy, cụ ở một gian, vừa để tiếp khách, còn một gian cụ dùng làm
phòng sao chế và tán thuốc. Từ khi tôi đến ở thì tôi để ý ngay đến cụ Lang
Sặt, linh tính như báo trước cho biết không phải là một người. Sự thực, thì
ở đó, cụ tỏ ra rất đúng mực, không bao giờ đi chơi khuya, ngay trong dịp
Tết nhất vừa qua cũng không hề rượu chè hay bài bạc. Suốt ngày, tôi chỉ
thấy cụ hoặc nằm xem sách thuốc hoặc lủi thủi một mình khi sao, tẩm các
vị thuốc sống cụ cân về… Thuốc của cụ thường dùng nhiều hồi quế và long
não lắm, vì đôi khi, tôi vì tò mò, lảng vảng ra chỗ vườn ấy thấy sặc một
mùi thơm, quế sạ, long não, hồi hương… Thấy cụ sống một mình thui thủi