hội và các thế lực độc quyền. Hậu quả là vào thời điểm Cách mạng công
nghiệp, các thể chế kinh tế của Trung Đông vẫn có tính chiếm đoạt, và kinh
tế thì đình trệ.
Cho đến thập niên 1840, người Ottoman cố gắng cải cách thể chế -
chẳng hạn như thông qua việc chấm dứt bán khoán quyền thu thuế và đưa
các băng nhóm tự trị địa phương vào vòng kiểm soát. Nhưng chủ nghĩa
chuyên chế tồn tại dai dẳng cho đến tận Thế chiến thứ nhất, và các nỗ lực
cải cách bị phá hoại bởi nỗi lo sợ thông thường về sự phá hủy sáng tạo và
nỗi lo sợ mất mát về kinh tế và chính trị của các nhóm quyền thế. Trong khi
các nhà cải cách Ottoman nói đến việc thực hiện quyền sở hữu tư nhân đối
với đất đai nhằm gia tăng năng suất nông nghiệp, song vì mong muốn giữ
được sự kiểm soát về chính trị và thuế khóa nên hiện trạng vẫn được giữ
nguyên. Thời kỳ thuộc địa Ottoman được tiếp nối bằng thời kỳ thuộc địa
châu Âu sau năm 1918. Khi sự kiểm soát của châu Âu chấm dứt, động thái
ở nơi đây cũng giống hệt như những gì chúng ta đã thấy ở vùng hạ Sahara
thuộc châu Phi, với các thể chế thuộc địa chiếm đoạt được tiếp quản bởi
giới quyền thế độc lập. Trong một vài trường hợp, như nền quân chủ ở
Jordan chẳng hạn, giới quyền thế là sản phẩm trực tiếp của cường quốc
thực dân, nhưng như chúng ta sẽ thấy, điều này lại xảy ra thường xuyên ở
châu Phi. Những nước Trung Đông không có dầu mỏ ngày nay có mức thu
nhập tương tự như các nước nghèo ở châu Mỹ La-tinh. Họ không khốn khổ
vì các áp lực bần cùng hóa như buôn bán nô lệ, và họ được hưởng lợi từ
dòng chảy công nghệ từ châu Âu trong một thời gian dài. Vào thời Trung
cổ, bản thân Trung Đông cũng là một vùng tương đối tiên tiến về mặt kinh
tế trên thế giới. Vì thế ngày nay nơi này không nghèo như châu Phi, nhưng
đa số dân chúng vẫn sống trong đói nghèo.
o0o
TA ĐÃ THẤY RẰNG không phải các lý thuyết dựa vào địa lý, văn
hóa hay sự vô minh giúp giải thích vị thế các quốc gia xung quanh ta.