1/3 dân số. Lẽ dĩ nhiên, người nô lệ không có quyền, huống hồ là đại diện
chính trị.
Dầu sao đi nữa, giống như ở Venice, các thể chế chính trị La Mã cũng
có những yếu tố đa nguyên. Người dân có cơ quan lập pháp riêng để bầu
chọn các vị quan hộ dân, người có quyền phủ quyết các phán quyết của
phán quan, và đề xuất luật pháp; cơ quan này được gọi là Hội đồng bình
dân (Plebeian Assembly). Chính nhân dân đã bầu chọn Tiberius Gracchus
làm quan hộ dân vào năm 133 TCN. Quyền lực của họ được hình thành
thông qua việc “ly khai” (secession), một hình thức đình công của dân
chúng, nhất là các chiến binh, khi họ lui về một ngọn đồi bên ngoài thành
phố và từ chối hợp tác với các phán quan cho đến khi các yêu sách của họ
được giải quyết. Mối đe dọa này dĩ nhiên đặc biệt quan trọng trong thời
chiến tranh. Người ta cho rằng chính trong một cuộc ly khai như vậy vào
thế kỷ thứ 5 TCN mà người dân đã giành được quyền bầu chọn các quan hộ
dân và ban hành luật lệ cai quản cộng đồng. Sự bảo vệ luật pháp và chính
trị của họ, cho dù bị giới hạn theo các tiêu chuẩn hiện nay, đã tạo ra các cơ
hội kinh tế cho dân chúng và một mức độ dung hợp nhất định trong các thể
chế kinh tế. Kết quả là hoạt động thương mại phát triển nhộn nhịp trên khắp
Địa Trung Hải dưới thời Cộng hòa La Mã. Bằng chứng khảo cổ cho thấy,
tuy mức sống của đa số quần chúng và nô lệ không cao lắm trên mức tồn
tại tối thiểu, nhiều người La Mã, bao gồm một số dân thường, đã có thu
nhập cao, được tiếp cận với các dịch vụ công như hệ thống thoát nước và
đèn đường.
Ngoài ra cũng có bằng chứng cho thấy có sự tăng trưởng kinh tế nhất
định dưới thời Cộng hòa La Mã. Chúng ta có thể lần theo dấu vết của
những con tàu đắm để tìm hiểu thành tựu kinh tế của La Mã. Theo một ý
nghĩa nào đó, Đế quốc La Mã được xây dựng như một mạng lưới của các
thành phố cảng - từ Athens, Antioch và Alexandria ở phía đông; qua Rome,
Carthage và Cadiz; kéo dài mãi đến Luân Đôn ở phía tây. Khi lãnh thổ La
Mã mở rộng, hoạt động thương mại và vận chuyển cũng phát triển, được