bận rộn và dễ bảo, và tốt hơn là nhà vua nên duy trì công ăn việc làm cho
họ, như vận chuyển cột chẳng hạn. Điều này bổ trợ cho bánh mì và đấu
trường, những thứ cũng được cung cấp miễn phí để làm hài lòng dân
chúng. Cũng cần nói thêm rằng cả hai trường hợp này đều xảy ra chẳng bao
lâu sau khi nền Cộng hòa sụp đổ. Các hoàng đế La Mã có nhiều quyền lực
hơn để ngăn chặn sự thay đổi so với những người cầm quyền dưới thời
Cộng hòa.
Một lý do quan trọng khác của tình trạng thiếu đổi mới công nghệ là
sự phổ biến của chế độ nô lệ. Khi Đế quốc La Mã bành trướng lãnh thổ, đại
đa số dân chúng bị bắt làm nô lệ, thường bị đưa về Ý để làm việc trong các
điền trang lớn. Nhiều công dân ở Rome không cần làm việc: họ sống bằng
lương thực do nhà nước cấp phát. Khi ấy động cơ đổi mới xuất phát từ đâu?
Chúng ta đã lập luận rằng đổi mới xuất phát từ những con người mới với
những ý tưởng mới, xây dựng các giải pháp mới cho những vấn đề cũ. Ở
La Mã, những người làm công việc sản xuất là nô lệ, và về sau là các
coloni bán nô lệ gần như không có động cơ đổi mới, vì chính chủ nô, chứ
không phải họ, sẽ hưởng lợi từ bất kỳ sự phát minh đổi mới nào. Như
chúng ta sẽ thấy nhiều lần trong quyển sách này, những nền kinh tế dựa vào
áp bức lao động và những hệ thống như nô lệ và nông nô đều nổi tiếng là
không có đổi mới. Đây là sự thật từ thế giới cổ xưa cho đến kỷ nguyên hiện
đại. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, các bang miền bắc tham gia vào Cách mạng công
nghiệp chứ không phải miền nam. Lẽ dĩ nhiên, chế độ nô lệ và nông nô tạo
ra của cải khổng lồ cho những người sở hữu nô lệ và kiểm soát nông nô,
nhưng nó không dẫn đến đổi mới công nghệ và sự thịnh vượng cho xã hội.
KHÔNG
CÒN
AI
VIẾT
THƯ
TỪ
VINDOLANDA
Năm 43 SCN, hoàng đế La Mã Claudius chinh phục nước Anh, nhưng
không chinh phục được Scotland. Thống đốc La Mã Agricola ra sức thực
hiện nỗ lực vô vọng cuối cùng rồi cũng đành từ bỏ để xây dựng một loạt