và Seville từ thế kỷ thứ 8. Nhà nước Ảrập cuối cùng trên bán đảo Iberia,
Granada, rơi vào tay Tây Ban Nha vào cùng thời điểm Christopher
Columbus đến châu Mỹ và bắt đầu chiếm cứ các vùng đất này cho nữ
hoàng Isabella và vua Ferdinand, những người tài trợ cho chuyến viễn
dương của ông.
Việc sáp nhập hai vương quốc Castile và Aragon cũng như các cuộc
hôn nhân hoàng tộc và sự thừa kế sau đó đã tạo ra một siêu nhà nước châu
Âu. Isabella băng hà năm 1504, và con gái bà Joana trở thành Nữ hoàng
Castile. Joanna kết hôn với Philip thuộc hoàng tộc Habsburg, con trai của
hoàng đế Maximilian I của Đế chế La Mã thần thánh. Vào năm 1516,
Charles, con trai của Joana và Philip lên ngôi, trở thành Vua Charles I của
Castile và Aragon. Khi phụ hoàng qua đời, Charles thừa kế Hà Lan và
Franche-Comté, bổ sung vào lãnh thổ của ông ở bán đảo Ibera và châu Mỹ.
Năm 1519, khi Hoàng đế Maximilian I băng hà, Charles cũng thừa kế lãnh
thổ hoàng tộc Habsburg ở Đức và trở thành Hoàng đế Charles V của Đế
chế La Mã thần thánh. Việc sáp nhập hai vương quốc của người Tây Ban
Nha vào năm 1492 giờ đây tạo ra một đế quốc đa lục địa, và Charles tiếp
tục sự nghiệp củng cố nhà nước chuyên chế do Isabella và Ferdinand khởi
công.
Nỗ lực xây dựng và củng cố chủ nghĩa chuyên chế ở Tây Ban Nha
được hỗ trợ mạnh mẽ bởi việc khám phá ra các kim loại quý ở châu Mỹ.
Bạc được khai thác với số lượng lớn ở Guanajuato thuộc Mexico vào thập
niên 1520, và chẳng bao lâu sau ở Zacatecas, Mexico. Việc chinh phục
Peru sau năm 1532 thậm chí còn mang lại nhiều của cải hơn cho triều đình.
Của cải này đạt được dưới hình thức phân phối theo tỷ lệ 1/5 cho hoàng gia
bất kỳ bổng lộc nào thu được từ việc chinh phục và khai thác khoáng sản.
Như ta đã thấy trong chương 1, một núi bạc được phát hiện ở thành phố
Potosí vào thập niên 1540 càng rót vào kho báu của nhà vua Tây Ban Nha
nhiều của cải hơn nữa.