Lập luận chống đối thương mại quốc tế của vua quan nhà Minh và nhà
Thanh giờ đây đã trở nên quen thuộc: nỗi lo sợ sự phá hủy sáng tạo. Mục
đích chính của các nhà lãnh đạo là ổn định chính trị. Thương mại quốc tế
có tiềm năng gây bất ổn khi các thương nhân trở nên giàu có và táo bạo
hơn, như ở Anh thời kỳ mở mang thương mại Đại Tây Dương. Đây không
chỉ là những gì vua quan nhà Minh và nhà Thanh tin tưởng, mà còn là thái
độ của những người cai trị dưới triều nhà Tống, ngay cả khi họ sẵn lòng
bảo trợ đổi mới công nghệ và cho phép tự do thương mại nhiều hơn, miễn
là điều này diễn ra dưới sự kiểm soát của họ. Sự việc trở nên xấu đi dưới
triều nhà Minh và nhà Thanh khi triều đình thắt chặt kiểm soát hoạt động
kinh tế và cấm giao thương hải ngoại. Chắc chắn có thị trường và thương
mại ở Trung Quốc dưới thời nhà Minh và nhà Thanh, và nhà nước đánh
thuế nền kinh tế nội địa khá nhẹ. Tuy nhiên, triều đình không ủng hộ phát
minh đổi mới, và đánh đổi sự phát triển thương mại hay thịnh vượng công
nghiệp để lấy sự ổn định chính trị. Người ta có thể dự đoán được hậu quả
của sự kiểm soát kinh tế chuyên chế này: nền kinh tế Trung Quốc đình trệ
suốt thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 trong khi các nền kinh tế khác đang công
nghiệp hóa. Đến lúc Mao Trạch Đông thiết lập chế độ cộng sản vào năm
1949, Trung Quốc đã trở thành một trong những nước nghèo nhất trên thế
giới.
CHỦ NGHĨA CHUYÊN CHẾ CỦA PRESTER
JOHN
Chủ nghĩa chuyên chế như một hệ thống thể chế chính trị và các hệ
quả kinh tế hình thành từ đó không chỉ hạn chế trong phạm vi châu Á và
châu Âu. Nó cũng hiện diện ở châu Phi, chẳng hạn như ở Vương quốc
Kongo, như chúng ta đã thấy trong chương 2. Và một ví dụ về chủ nghĩa
chuyên chế châu Phi tồn tại trong một thời gian dài hơn là Ethiopia hay
Abyssinia, mà ta đã xem xét nguồn gốc của nó trong chương 6 khi thảo
luận về sự ra đời của chủ nghĩa phong kiến sau khi Vương quốc Aksum suy