đều là của Thượng đế, và người chỉ giao nó cho các tù trưởng thôi hay
sao?” Phản ứng của cha Sonjica là hoàn toàn dễ hiểu. Nhưng Sonjica không
vì vậy mà thối chí. Ông tìm được một việc làm ở thị trấn King William và
ghi lại như sau:
Tôi đã khôn khéo mở một tài khoản riêng và bỏ vào đó một phần tiền
tiết kiệm… cho đến khi tôi để dành được 8 nghìn bảng… [Tôi mua] một
cặp bò cùng với ách, bộ cương, cái cày và những vật dụng nông nghiệp
khác… Hôm nay tôi mua một nông trại nhỏ… Tôi không dám nhiệt tình
giới thiệu [nông nghiệp] như là một nghề cho người dân xứ tôi… Tuy nhiên
họ cần áp dụng những phương pháp kiếm lời hiện đại.
Một bằng chứng đáng chú ý khác xác nhận tính năng động kinh tế và
sự phát đạt của nông dân châu Phi trong giai đoạn này được tìm thấy trong
một bức thư của một nhà truyền đạo thuộc giáo phái Giám Lý, W.J Davis,
viết năm 1869. Trong bức thư gửi về Anh, ông hài lòng ghi rằng ông đã
quyên được 46 bảng tiền mặt “cho hội Cứu tế Nhà máy đay Lancashire”.
Trong giai đoạn này những nông dân thành đạt châu Phi gửi tiền cứu trợ
cho công nhân nghèo làm việc trong ngành dệt ở Anh!
Không có gì ngạc nhiên khi sự năng động kinh tế mới này không làm
cho các tù trưởng truyền thống hài lòng, họ xem những thay đổi này như
mối đe dọa làm suy yếu quyền lực và tài sản của họ - một kiểu phản ứng
giờ đã quá quen thuộc với chúng ta. Vào năm 1879 Matthew Blyth, quan
tòa tối cao của Transkei, nhận xét rằng việc khảo sát đất nhằm mục đích
chia đất cho tư nhân gặp phải sự chống đối. Ông ghi chép rằng “một số tù
trưởng… phản đối, nhưng hầu hết người dân đều hài lòng… những tù
trưởng coi việc trao quyền sở hữu cá thể cho người dân sẽ phá hủy ảnh
hưởng của các tộc trưởng”.
Các tù trưởng cũng phản đối những phương pháp canh tân đất đai, ví
dụ như đào các mương rãnh tưới tiêu hay dựng hàng rào. Họ nhận ra rằng
những thay đổi này là bước mở đầu cho quyền sở hữu đất đai cá thể, và là