Những người khác gọi rượu vang.Cornuyđê thì đòi bia. Y có một lối đặc
biệt mở nút chai, làm cho bia sủi bọt, nghiêng cốc nhìn, rồi nâng cốc lên soi
qua đèn và dùng mắt thưởng thức kỹ màu sắc. Khi uống, bộ râu rậm của y
– nó vẫn giữ cái màu vẻ của món giải khát y ưa chuộng - dường như trìu
mến rung lên, mắt y không ngừng theo dõi cốc vại đến thành lác trật, và
trông y có vẻ như đang thực hiện cái chức năng duy nhất của đời y. Tưởng
chừng như y đang xác lập trong đầu óc một sự kết hợp và hầu như một mối
tương quan giữa hai thú say mê lớn choán hết cả cuộc đời y: rượu bia Palơ
Alơ và cách mạng và chắc chắn là y không thể nào thưởng thức thứ này mà
không nghĩ đến thứ kia.
Vợ chồng lão Fonlăngvi ngồi ăn ở mãi tận cuối bàn. Lão ta thở phì
phò như một đầu máy xe lửa vỡ, ngực khò khè mạnh quá nên không thể
nào vừa ăn vừa nói được, nhưng vợ lão thì không chịu im miệng lúc nào.
Bà ta kể lể mọi cảm tưởng của mình khi bọn Phổ đến, nào chúng làm gì,
nào chúng nói gì, bà ghét cay ghét đắng chúng trước hết vì chúng làm cho
bà tốn của, và sau nữa là vì bà có hai con trai tại ngũ. Bà hay hỏi chuyện bà
bá tước nhất, thích thú được chuyện trò với một phu nhân cao quí.
Rồi và hạ thấp giọng để nói những chuyện tế nhị, và ông chồng thỉnh
thoảng lại ngắt lời bà: “Im mồm đi thì hơn, bà Fonlăngvi ạ”. Nhưng bà
chẳng để ý gì đến lời chồng, và cứ nói tiếp:
- Vâng thưa bà, cái quân ấy chỉ có ăn khoai tây và thịt lợn, và rồi thịt
lợn và khoai tây. Và đừng có tưởng là chúng sạch sẽ gì đâu! Ồ, không! Nói
vô phép với bà chứ, chúng bậy bạ ra khắp mọi chỗ. Và giá bà trông thấy
chúng tập tành hết giờ này sang giờ khác và hết ngày này sang ngày khác;
chúng ra tất cả ngoài cánh đồng kia kìa: nào tiến lên, nào lùi xuống, nào
quay đằng này, nào quay đằng nọ. Chẳng thà chúng đi xới đất trồng trọt,
hoặc là chúng đi làm đường làm sá ở đất nước chúng! Nhưng không, thưa
bà, cái bọn lính tráng ấy, thật chẳng được tích sự gì cho ai hết! Tội cho
người dân đáng thương cứ phải nuôi chúng để chúng độc có một cái trò duy