lòng. Hôm đó tôi thấy anh ta trên đường cái từ xa đi tới. Anh ta bước đi,
súng khoác trên vai, và vì chúng tôi quen biết nhau tôi đi lại gặp anh: «Anh
đi đâu đấy, anh Nik?» Tôi gọi - «Con đi chiến đấu đây», anh đáp. - «Một
mình ư?» - «Vâng, một mình». Tôi muốn ngăn anh ta lại và xuống đến
đường, tôi đứng chặn trước mặt anh và vừa nói vừa làm dấu. «Bình an cho
các con của Chúa!» Anh trừng mắt nhìn tôi, cái nhìn hung dữ và tay như
muốn nắm lấy khẩu súng: «Cha hãy tránh ra!» - anh gầm lên. Rồi anh đưa
mắt nhìn lên gác chuông, và không một lời, tiến về phía tu viện. Tôi theo
chân anh. Cả hai chúng tôi leo lên trên đỉnh gác chuông, từ đó nhìn thấy bờ
biển, quân địch đông như kiến. «Chúng đổ bộ rồi, tôi nói với anh, về nhà đi,
Nik!» «Không, con không về!» anh đáp và thở hổn hển như con thú dữ. Anh
trở xuống. Tôi thấy anh đi nhanh ra đường cái và leo lên mỏm cao này.
- Thế rồi anh ta chiến đấu một mình ư? Viên tướng hỏi.
- Phải, đơn độc một mình. Anh đã bắn trong hơn một tiếng đồng hồ.
Thỉnh thoảng anh mới nổ súng, tiếng đạn rít trong không khí cách nhau từng
quãng dài. Quãng đường này đen ngòm quân địch, còn anh, anh cứ bắn, bắn
mãi. Chúng chẳng có cách nào đánh bật được anh ra khỏi đấy cho đến khi
một viên đạn súng cối bắn trúng anh.
- Thế anh ấy chết chứ?
- Không. Trước chúng tôi cũng tưởng như vậy, khi tiếng súng của
anh im bặt. Nhưng về sau, có tin anh lại xuất hiện cách xa đây mười cây số
trên một mỏm cao khác và anh còn chiến đấu trong một giờ nữa.
- Tôi có thể tin được lắm, viên tướng nói. Một vị trí như thế kia hầu
như bất khả xâm phạm. Có thể cầm cự suốt ngày ròng rã được nếu không bị
pháo đánh bật đi.
- Quân địch đã cố leo lên, vị tu sĩ nói, và chính trong những đợt xung
phong ấy mà người lính này bị bắn chết. Từ các cửa sổ tu viện, chúng tôi
theo dõi những cố gắng vô ích của họ để leo lên đồi. Rồi sau khi khiêng đến
đây người bạn đồng đội của họ bị bắn chết quấn trong chiếc áo khoác da, họ
chôn người lính rồi quyết định nã súng cối vào vị trí ấy.
- Thế người dân miền núi đó thoát à? Viên tướng hỏi.