đêm nay. Nước chảy xối xả khắp chỗ. Không làm sao đào huyệt được, vì
huyệt sẽ ngập nước đến lưng chừng, một thứ nước đen như nhựa thông, tựa
hồ từ đêm tối vọt ra. Ấy vậy mà tao đây, tao đã đào nổi một cái đấy. Nhưng
tao sẽ chẳng kể lại tí gì về chuyện ấy cho mày nghe đâu, để khỏi phá rối
niềm vui của những người khác, cả niềm vui của mày nữa, ôi quân khốn
kiếp!»
Viên tướng châm một điếu thuốc lá và lấy làm lạ rằng sao mà nó có
vẻ bé bỏng, bất lực bên cạnh những chiếc tẩu gỗ hoàng dương, dài và đen
trong bàn tay hung hung đỏ của các cụ già, các cụ trò chuyện với nhau thỉnh
thoảng lại hút một hơi, như để cầm nhịp cho câu chuyện.
Chủ nhân, ông cụ đã đón tiếp viên tướng ở hành lang lúc mở đầu
buổi vui, đến ngồi bên ông, tay cũng nắm tẩu như các cụ già khác, trên chiếc
áo ngắn dày bằng len đen, lủng lẳng một tấm huân chương dải màu vàng.
Viên tướng biết rõ những huân chương ấy vì ông thường vẫn nhìn thấy trên
ngực các nông dân, và tưởng chừng như ở mặt sau mỗi cái đều có khuôn mặt
mờ nhạt của một tên lính chết trong đoàn quân của ông. Ông mỉm cười với
ông cụ có bộ mặt nhăn nheo khiến ông nghĩ tới một khúc cây khô, nứt nẻ,
nhưng còn cứng cáp. Một người ngồi bên ông, người lúc đầu đã mời ông
nâng cốc, dịch cho ông nghe những câu đầu tiên của ông cụ. Chủ nhân xin
lỗi đã không đến tiếp chuyện, vì khách khứa vẫn cứ tiếp tục kéo đến, cụ có
bổn phận phải tiếp đón tất cả mọi người.
Viên tướng cuống quít đáp lại bằng những lời lẽ lịch sự và lễ phép
gật đầu. Ông cụ nín lặng, nhè nhẹ rít tẩu thuốc rồi bình thản hỏi viên tướng:
- Ông ở đâu thế?
Viên tướng trả lời.
Ông cụ gật đầu ra chiều nghĩ ngợi, khiến viên tướng hiểu rằng cụ
chưa bao giờ nghe nói tới thành phố đó, tuy là một thành phố lớn, rất nhiều
người biết.
- Ông có vợ, có con rồi chứ? ông cụ lại hỏi.
- Vâng, tôi đã có vợ và được hai con.
- Chúc cho họ sống lâu!