thờ. Ông nhúng ngón tay vào bình nước phép ở phía tay phải, làm dấu rồi
đến ngồi vào một bên. Ông chăm chú nhìn ông linh mục, nghe ông ta nói
nhưng hầu như không hiểu gì hết. Ông chỉ nhìn thấy những bức rèm đen treo
tứ phía như thường lệ vào những dịp như thế này, và, trước ban đồng ca, cái
áo quan rỗng cũng phủ một tấm màn đen. Các bức rèm và quần áo đen của
những người có mặt hút hết ánh sáng nhợt nhạt của những cây sáp và, vì các
cửa sổ trổ rất cao, các ô kính màu chỉ để lọt qua một ánh sáng yếu ớt, nhà
thờ nom càng âm u và lạnh lẽo hơn.
Ông linh mục cầu kinh siêu độ linh hồn các tử sĩ. Vì thiếu ngủ, mặt
ông càng thêm xanh xao, cặp mắt ông có vẻ mệt mỏi, bứt rứt. Các nhà ngoại
giao chăm chú, lắng nghe, nét mặt cứng nhắc, trang nghiêm, và, lẫn vào mùi
nến sáp, một hương thơm nhè nhẹ phảng phất trong nhà thờ.
Trước mặt viên tướng, một người đàn bà lặng lẽ khóc. Viên tướng
nhận ra bà ta, tự nhủ: «Vợ một viên chức của sứ quán ta».
Tiếng nói của ông linh mục vọng tới bốn góc nhà thờ, vang vang
trịnh trọng.
Người đàn bà càng nức nở, rút mùi xoa trong ví tay ra.
«Et lux perpetua luceat eis!»
ông linh mục vừa đọc tiếp vừa ngẩng
nhìn lên tượng Chúa Jesus trên cây thập tự. Rồi tiếng ông vang lên càng sâu
sắc hơn, trịnh trọng hơn:
«Requiescant in pace!»
và tiếng ông vang lên ở khắp mọi góc nhà
thờ.
«Amen!» viên trợ tế đáp.
Trong vài giây, viên tướng tưởng như nghe thấy các cây sáp đang
cháy khẽ xèo xèo.
«Cầu cho họ được yên nghỉ!» ông nhắc lại, và một xúc động đột ngột
xâm nhập lòng ông.
Rồi trước cử tọa đang quỳ, ông linh mục nâng bánh thánh lên trước,
rồi đến cốc rượu tế, và sau đó bắt đầu ăn bánh và uống rượu vang để cầu cho
linh hồn họ được cứu rỗi. Viên tướng đột nhiên tưởng như trông thấy tất cả