Vương vừa mới mất đã hiển linh, thường ở trong thôn dân hiện hình
thành thiên xa vạn mã phi đằng trên gia ốc, trên cổ thụ; chúng nhân trông
lên thực như đám mây ngũ sắc, lại nghe thấy ti trúc, quản huyền giao hưởng
trên không trung, tiếng hô hoán, tiếng cờ trống võng kiệu vọng lên nghe
thấy phân minh giữa ban ngày. Phàm trong ấp có tai nạn hoặc việc vui
mừng thì Ấp trưởng trong đêm đã thấy có dị nhân báo cáo trước; chúng
phục là thần, lập đền phía tây Đô phủ mà phụng sự, phàm có việc trộm
cướp, việc hồ nghi thì đại thể tề tựu trước đền mà bái yết thần, vào trong
đền mà minh thệ, lập tức thấy họa phúc. Nhà thương mại đem lễ đến đền
cầu lợi hậu đều có linh ứng; thôn dân gặp phải mưa dầm hay đại hạn; cầu
đảo liền được như ý. Mỗi năm xã đến ngày tạ lễ, người đến đông như rừng
như biển, bánh xe dấu ngựa đầy đường; miếu mạo nguy nga, hương đèn
chẳng dứt.
Thời Ngô Tiên chúa kiến quốc, Bắc binh nhập khấu, Tiên chúa đã lo, nửa
đêm hốt nhiên mộng thấy một ông già đầu bạc, y quan nghiêm nhã, tay cầm
quạt lông, chống gậy trúc, tự xưng tính danh rằng:
- Ta lãnh thần binh vạn đội, sẵn sàng mai phục các chỗ yếu hại, chúa
công tức tốc tiến binh chống cự, đã có âm trợ, chớ lo phiền chi cả.
Đến khi tiến binh trên Bạch Đằng, quả thấy trên không có tiếng xe ngựa,
trận ấy quả được đại tiệp; tiên chúa lấy làm lạ, chiếu kiến lập miếu điện,
trang nghiêm có từng hơn xưa, lại sắm thêm quạt lông, cờ hòang đạo, chiên
đồng, trống đại, rồi làm lễ thái lao, con hát đến làm lễ tạ; lịch triều theo đó
dần dần thành ra cổ lễ.
Hoàng triều niên hiệu Trùng hưng năm đầu, sắc phong Phu Hựu Đại
Vương. Năm thứ bốn mươi, gia thêm hai chữ Chương Tín, Năm Hưng
Long thứ hai mươi, gia phong hai chữ Sùng Nghĩa, đến bây giờ anh uy càng
thịnh, hương lửa không ngớt vậy.
Tiếm bình