một thống sứ Pháp cai trị, và Trung kỳ Bảo hộ do một khâm sứ Pháp đứng
đầu. Đối với xứ Bảo hộ Trung kỳ từ Thanh Hóa đến Phan Thiết, Pháp vẫn
giữ lại nền quân chủ có vua và triều đình với chút hư quyền, hư danh. (Vì
vậy, từ đây, kẻ viết xin gọi nhà Nguyễn từ thời nước nhà bị đô hộ là nhà Mạt
Nguyễn).
Thời Mạt Nguyễn, trừ vua Đồng Khánh là một ông vua hiền hậu nhưng chỉ
ngồi trên ngai vàng được có ba năm rồi chết, còn những vị vua khác, có ông
thì là vua cách mạng, có ông thì thuộc loại vua bù nhìn.
Về cách mạng thì có:
Vua Hàm Nghi (1884) bỏ kinh thành ra Tuyên Hóa (Quảng Bình) lập chiến
khu, phất cao ngọn cờ Cần Vương chống Pháp. Rồi vì thân cô thế yếu, lại bị
một tên Mường (Trương Quang Ngọc) phản bội bắt Ngài giao cho Pháp nên
bị Pháp đem đày ở Algérie.
Vua Thành Thái (1888-1920), lên ngôi khi mới 10 tuổi, là vị vua thông
minh uyên bác, thấm nhuần tư tưởng cách mạng Trung Hoa và Nhật Bản,
muốn thực hiện công cuộc cải cách quốc gia, đưa dân tộc đến con đường tân
tiến. Nhưng tất cả việc làm của ông đều bị người Pháp ngăn trở, Vua tức
giận giả cách điên rồ, ngấm ngầm xướng xuất đưa thanh niên ra nước ngoài
cầu học để dùng vào đại cuộc sau này. Chính nhà vua cũng âm mưu xuất
ngoại nhưng sự không thành nên năm 1907, khi Pháp dò biết được vua liên
lạc với Phong Trào Đông Du để cầu viện Nhật Bản, bèn bắt ép vua thoái vị
và đày qua đảo Réunion ở Ấn Độ Dương.
Vua Duy Tân (trị vì từ 1907-1916) là con vua Thành Thái, còn nhỏ tuổi mà
đã nhiều phen bộc lộ nỗi căm thù thực dân Pháp. Nhân một buổi bơi thuyền
câu cá ở cửa Tùng (Quảng Trị), nhà vua ra một câu đối cho thượng thư
Nguyễn Hữu Bài, người của Pháp, để dò xem lòng dạ ông này như thế nào:
Ngồi trên nước khôn ngăn được nước,
Trót buông câu đã lỡ phải lần.
Đáp lại, thượng thư Nguyễn Hữu Bài khuyên nhà vua nên nhắm mắt chịu
thua thời cuộc:
Ngẫm việc đời mà ngán cho đời,
Liều nhắm mắt tới đâu hay đó.