tạo một tiếng dội về Bộ Ngoại giao Pháp, Đại sứ Phạm Duy Khiêm đã giới
thiệu tôi không phải là một con cọp hung dữ với Đại sứ Payart, nhưng chính
phủ Pháp vẫn coi tôi là phần tử nguy hiểm. Tuy nhiên, lúc bấy giờ, vì chính
phủ Pháp chưa muốn tạo ra quan hệ căng thẳng giữa Pháp và Việt Nam nên
họ đã để cho tôi ở vào cái thế không ở trong quy chế ngoại giao đoàn mà
cũng không coi tôi là một personna non grata để trục xuất về nước. Cuối
năm 1956, nhân có các ông Trần Chánh Thành và Nguyễn Hữu Châu đi
công cán ở Pháp, tôi nhờ hai ông về trình lại với Tổng thống Diệm cho tôi
được hồi hương. Trong lúc chờ đợi sự giải quyết của chánh phủ Sài Gòn, tôi
lại phải kéo dài chuỗi ngày vô vị chán nản của một người mang tâm trạng bị
vắt chanh bỏ vỏ, một người bị phản bội, sống vất vưởng nơi quê người mà
tâm huyết đóng góp cho đất nước thì vẫn sục sôi theo ngày tháng.
Paris vào tiết trọng Đông sương tuyết lạnh lùng càng làm cho niềm cô đơn
thêm tê tái, căn phòng trọ ở số 10 đường Claude Terrace gần Porte St. Cloud
là một cao ốc ở tầng thứ bẩy hứng chịu cơn gió lốc buốt giá khi đêm về. Tôi
thường ngồi độc ẩm với bình trà tàu thâu đêm và tuy không phải là thi sĩ,
nhưng cứ mỗi lần tâm sự dạt dào thì tình thơ lại chứa chan lai láng. Nhớ lại
cụ Phan Thanh Giản ngày xưa cũng đã có lần đi sứ sang Pháp nên tôi bèn
nhại bài thơ Đường của Cụ để ký thác tâm sự mình, tâm sự mà tôi muốn
nhắn gởi cho ông Diệm:
Từ lúc quen nhau kết chữ đồng,
Lời thề đã hẹn với non sông.
Trời Tây riêng tớ sầu cô quạnh,
Đất Việt mong ai khéo vẫy vùng.
Chén rượu liên hoan còn chửa cạn,
Con thuyền viễn xứ đã xa trông.
Trùng dương muôn dặm dù xa cách,
Rằng nhớ rằng quên, lòng hỏi lòng.
Tôi gởi bài thơ về nước cho một số bạn bè đọc chơi, không ngờ sau này ông