nữa. Cho đến sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ tôi mới có dịp gặp
lại các ông Phạm Việt Tuyền, Như Phong và Hiếu Chân khi các ông ấy đến
thăm tôi tại nhà riêng ở Sài Gòn để cảm tạ chút tình tri ngộ. Cái tai họa do
bức tranh Chuột gây ra bỗng trở thành cơ duyên cho tôi được thêm ba người
bạn mới, tuy hoàn cảnh không cho phép thắm thiết nhưng thời gian đã thử
thách được sự keo sơn.
Riêng ông Hiếu Chân Nguyễn Hoạt thì trong đêm bị bố ráp đã nhanh chân
trốn thoát đến ẩn trú tại một làng ở kinh Vĩnh Tế gần biên giới Miên–Việt,
mãi cho đến sau ngày chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ mới trở về lại Sài
Gòn đoàn tụ gia đình. Sau đó, khi viết hồi ký để kể lại đoạn trường của nền
báo chí Việt Nam dưới chế độ “Cách mạng Nhân Vị” Ngô triều, ông có
nhắc lại chuyện này và trong đó có nhiều đoạn khen ngợi sự sáng suốt và
can đảm của vị “Giám đốc Nha An ninh Quân đội thời đó”.
Thành thực mà nói, trong giới làng văn làng báo năm xưa, tôi rất quý trọng
nhiều người mà đặc biệt là hai ông Hiếu Chân và Như Phong vốn là những
người tranh đấu trong đảng cách mạng Việt Quốc. Chẳng những họ là
những người chiến sĩ cách mạng tiền phong chống Cộng, đầy ắp tình tự dân
tộc và hành xử phóng khoáng tự do, mà họ lại còn có khả năng diễn đạt làm
khích động lòng người theo con đường chính nghĩa. Tôi đã say mê đọc bản
dịch Liêu Trai Chí Dị của ông Hiếu Chân và khâm phục tinh thần đoàn kết
của ông qua tác phẩm Mắt Em Ở Bốn Phương Trời (sau đổi ra là Trăng
Nước Đồng Nai), một tác phẩm đề cao tinh thần đoàn kết giữa người Nam
và người Bắc để cùng nhau phụng sự đất nước.
Vì khâm phục hai ông Như Phong và Hiếu Chân nên sau khi lật đổ chế độ
Diệm, tôi đã đề nghị với Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng mời hai ông vào
Hội Đồng Nhân Sĩ, một hội đồng được coi như cơ cấu Lập pháp tạm thời
thay thế Quốc Hội. Sau này, khi tị nạn tại Mỹ, đọc hồi ký của ông Tô Văn
trên báo Thức Tỉnh, tôi mới được biết Hiếu Chân đã từng viết nhiều về tôi
với bao thâm tình tri kỷ. Nhưng than ôi, Hiếu Chân và tôi sẽ không bao giờ
còn gặp nhau được nữa, anh đau khổ sống mỏi mòn nơi quê nhà, còn tôi nơi
đất khách quê người ngày ngày ngắm nhìn mây bay về trời Tây mà ngậm
ngùi nhớ thương cố nhân nhục nhằn khổ đau nơi cố quận. (Lúc tái bản sách