cho nguyên lý “Phụ”. Bà Chúa Liễu Hạnh tượng trưng cho sự trong trắng,
sự khôn ngoan, hiền thảo của người đàn bà nên được dân chúng Việt Nam
tôn thờ như Quốc Mẫu, có đền thờ ở Sòng Sơn (Bắc Việt) và được vua chúa
các triều đại phong sắc. Trong dân gian có câu tháng tám giỗ Cha, tháng ba
giỗ Mẹ, Cha là Đức Thánh Trần, Mẹ là Tiên Chúa Liễu Hạnh.[11]
Vì Nội tổ chúng tôi là một vị thần linh nên dân làng bảo trợ cho con cháu
lập đền thờ ở quê làng để hàng năm Xuân Thu nhị kỳ cùng đến làm lễ cúng
kỵ. Khi đất nước bị chia đôi vào năm 1954, họ chúng tôi di cư vào Nha
Trang, lại lập đền thờ trong khuôn viên ngôi nhà anh ruột tôi là ông Đỗ
Toàn mà nhiều bạn bè của gia đình chúng tôi ở Nha Trang đã từng đến
chiêm ngưỡng.
Nói về quân Cần Vương ở quê tôi, sử gia Trần Trọng Kim đã viết:
Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng huyện Tuyên Hóa có các con
của Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc
Lê Trực và cử nhân Nguyễn Phạm Tuân hết sức giữ gìn và đem quân đi
đánh phá ở mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh.
Tháng Giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc Kỳ
vào Nghệ An rồi chia làm hai đạo. Một đạo do thiếu tá Pelletier theo sông
Ngàn Sâu vào mạn Tuyên Hóa, một đạo thì trung tá Mignot tự đem quân đi
đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh rồi vào đóng ở sông Gianh.
Ở Huế lại sai trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo.
Quân Pháp đóng ở chợ Đồn (Ba Đồn) và ở Minh Cầm rồi trung tá
Metzniger đem ông Cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé. Thế
quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân Cần Vương chống không nổi, phải tan
ra.
Quân Pháp triệu các đạo quân về chỉ đóng giữ ở Quảng Khê (cửa sông
Gianh), ở Ròn, ở Ba Đồn mà thôi. Quân Cần Vương thấy quân Pháp rút đi
lại trở về đóng ở đồn cũ.
Người Pháp cũng biết là thế lực của đảng vua Hàm Nghi chẳng được là bao
nhiêu, cốt tìm đường mà chiếm dần địa thế, bởi vậy cho nên không dùng
đến đại binh.
Trước, đại úy Mouteaux ở Quảng Bình đã cùng với ông cố Tây Tortuyaux