VIỆT NAM MÁU LỬA QUÊ HƯƠNG TÔI - Trang 744

Nêu lên một số sự kiện lịch sử trên đây từ Âu qua Á, từ bạn đến thù, tôi chỉ
muốn nói rằng sau Thế Chiến thứ Hai, trước mưu đồ bành trướng của Cộng
Sản quốc tế, chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ dù là đối đầu
(Confrontation), ngăn chận (Containment), hay lật ngược (Rollover, chữ của
tạp chí Foreign Affairs), thì cũng đều nhằm đem sức mạnh quân sự, sức
mạnh tài lực, sức mạnh kỹ thuật của mình ra mà cứu bạn và xây dựng cho
bạn thì mới cứu được mình và mới xây dựng được mình.


Chính sách ngoại giao của Hoa Kỳ đối với Việt Nam từ sau Đệ Nhị Thế
Chiến cũng không nằm ngoài quy luật đó.


Ngay sau Thế chiến thứ nhì, Tổng thống Franklin Roosevelt đã chủ trương
yểm trợ cho các phong trào “giải phóng dân tộc” của các quốc gia thuộc địa
trong khuôn khổ của phong trào giải thực toàn cầu mà Việt Nam là một thí
điểm kiểu mẫu. Ngay trong thời kỳ Nhật chiếm đóng Đông Dương, ngày 22
tháng 8 năm 1945, một phái đoàn Mỹ gồm năm sĩ quan do Thiếu tá
Archimede L. Patti cầm đầu đã nhảy dù xuống vùng thượng du Bắc Việt
giúp ông Hồ Chí Minh kháng Nhật, và chính phái đoàn Mỹ này đã về Hà
Nội dự lễ Độc lập đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Nhưng
khi ông Hồ Chí Minh và Việt Minh để lộ màu sắc Cộng Sản thì phái đoàn
Patti được lệnh chấm dứt mọi liên hệ để hồi hương. Cuộc chiến tranh giữa
Cộng sản Việt Nam vận dụng dân tộc và thực dân Pháp đội lốt “quốc gia
chống Cộng” bắt đầu ngay sau đó. Ngày 29 tháng 12 năm 1947, cựu Đại sứ
Hoa Kỳ William Bullit viết trên tờ Life Magazine một bài báo gọi trận chiến
tranh Đông Dương là “trận chiến tranh buồn thảm nhất” (the saddest war),
ông kêu gọi Pháp phải trả độc lập hoàn toàn cho Việt Nam dù là một Việt
Nam do Đảng Cộng Sản Đông Dương lãnh đạo.


Lời kêu gọi của William Bullit tuy ngây thơ nhưng phát xuất từ tâm thức

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.