“giải phóng dân tộc”, bắt nguồn từ chính cuộc cách mạng lập quốc 1776
giải phóng khỏi ách đô hộ của đế quốc Anh, đã đánh động được dư luận
Hoa Kỳ, vì vậy khi Điện Biên Phủ lâm nguy (tháng 5 năm 1954) và khi
chính phủ Pháp yêu cầu Hoa Kỳ yểm trợ bằng lực lượng không quân thì
Tổng thống Eisenhower và Ngoại trưởng Foster Dulles từ chối. Quan điểm
của Ngoại trưởng Dulles lúc bấy giờ là nếu Pháp muốn Hoa Kỳ cứu viện thì
phải chịu hai điều kiện: một là phải trả độc lập hoàn toàn cho thành phần
quốc gia Việt Nam không Cộng Sản, và hai là Mỹ phải giành lấy trách
nhiệm lãnh đạo cuộc chiến tranh Đông Dương. Tuy nhiên, phần vì chính
phủ Anh không chấp thuận việc đồng minh tham chiến tại Đông Dương,
phần khác vì cả Pháp lẫn khối Cộng Sản đều muốn giải quyết mau chóng
vấn đề Việt Nam nên chủ trương của Ngoại trưởng Dulles đã không được
thực hiện.
Quy ước của Hội nghị Genève 1954 đã tạm thời chia đôi đất nước tại vĩ
tuyến 17. Phản ánh đúng đắn đường lối ngoại giao của mình, Hoa Kỳ can
thiệp mạnh mẽ vào vấn đề Đông Dương mà cụ thể là giúp ông Diệm về
nước để xây dựng một tiền đồn chống Cộng tại Đông Nam Á. Vì tiền đồn
đó, nếu muốn đóng vai trò chống Cộng hữu hiệu thì phải thật sự tự do, dân
chủ trên mặt chính trị, và phải thật sự hùng mạnh trên mặt kinh tế và quân
sự, nên Hoa Kỳ đã không ngại ngùng dùng mọi kế sách và phương tiện để
ủng hộ cho miền Nam, kể cả việc không tôn trọng hai điều khoản quan
trọng của hội nghị Genève về vấn đề Tổng Tuyển Cử (năm 1956) và về vấn
đề quân đội ngoại nhập. Quân viện và kinh viện Hoa Kỳ đổ vào miền Nam
như thác đổ, chuyên viên và phương tiện Hoa Kỳ như một kho tàng bất tận
cho nhà cầm quyền miền Nam sử dụng; tiếc thay, anh em ông Diệm đã
không biết vận dụng sức mạnh đó để bổ túc cho sức mạnh cốt lõi của dân
tộc hầu chống Cộng cứu nước và phát triển quốc gia. Đã thế, khi không
chống nổi Cộng Sản và trước những áp lực chính đáng của Hoa Kỳ đòi cải
tiến chế độ, họ lại phản bội cả dân tộc lẫn đồng minh để thỏa hiệp với chính
kẻ thù Cộng Sản. Năm 1963 ông Ngô Đình Nhu đã tuyên bố rất rõ ràng: