1963, sau khi Tòa Thánh nhận định đúng đắn được tội ác của anh em ông
Diệm trong chính sách kỳ thị và đàn áp tôn giáo, nhất là sau vụ tấn công
chùa chiền đêm 20/8/1963. (Theo “Hai Mươi Năm Qua” của Đoàn Thêm thì
có tin đồn Giám mục Ngô Đình Thục khi đến La Mã đã không được phép
bệ kiến Đức Giáo Hoàng). Viết đến đây tôi cũng lại nhớ đến Đỗ Thọ, sĩ
quan tùy viên trung thành của Tổng thống Diệm, một đứa cháu của tôi, tuy
không ý thức chính trị và không nắm vững tình hình chung của quốc gia
nhưng cũng nhìn được một số sự kiện thực tế và nhận xét chân thực như
sau:
“Thái độ của Tổng thống Diệm làm cho Đức Cha Thục nghĩ mình là “Đại
diện Thiên chúa” với Tổng thống. Dưới chế độ Diệm, không phải xứ đạo
Công giáo nào cũng ủng hộ cả. Vì ngay cả Đức Khâm mạng Tòa Thánh
Vatican ở Sài Gòn một đôi lúc cũng khuyến cáo Tổng thống Diệm. Tuy
nhiên, Tổng thống Diệm lờ đi. Nếu nói một cách phũ phàng thì Tổng thống
Diệm là người nể Đức Cha Thục quá mức. Đức Cha Thục đã góp phần vào
việc đưa đẩy Tổng thống Diệm đến nơi an nghỉ cuối cùng”.[12]
Dù vậy, một mình ông Ngô Đình Thục vẫn chưa phải là thành tố tạo ra một
giáo hội Việt Nam lộng hành và cao ngạo, lại càng không thể tạo ra một giai
cấp Việt Nam mới chỉ gồm toàn tín đồ Công giáo sống tách rời khỏi đại
chúng Việt Nam trên mặt chính trị cũng như xã hội. Cũng vậy, 9 năm được
ưu đãi dưới chế độ Diệm chưa đủ lâu dài để khai sinh một lực lượng khuynh
loát hầu hết sinh hoạt quốc gia ở thượng tầng kiến trúc, khống chế mọi khu
vực kinh tế, chính trị, văn hóa, quốc phòng của quê hương. Phải có một yếu
tố nào đó sâu sắc hơn, mãnh liệt hơn, mà bản chất và tác phong của người
Công giáo Việt Nam dưới 9 năm của chế độ Diệm chỉ là cao điểm cuối cùng
mà thôi. Yếu tố đó, như tôi đã trình bày trong một chương trước là sự nối
dài, cả trong không gian lẫn thời gian, cái tinh thần giáo điều và độc tôn của
Tòa Thánh La Mã từ thời Trung cổ Tây phương đến mảnh đất Việt Nam, là
sự khai thác những thỏa hiệp nhịp nhàng giữa thực dân và “Hội Truyền
Giáo Hải Ngoại” trong chính sách xâm thực của đế quốc Pháp từ gần hai thế
kỷ trên quê hương Việt Nam.
Yếu tố đó, từ nhiều năm trước, đã được phát hiện ra hoặc bởi những khuôn