cho Tổng thống Eisenhower, ông đã tỏ ra quá khích.
Trong gần 10 năm giữ chức Đại sứ Mỹ tại Liên Hiệp Quốc, ông thường
chống đối gay gắt viên Đại sứ Nga Sô, nhưng khi Thủ tướng Khrushchev
viếng thăm Hoa Kỳ thì Cabot Lodge lại làm người hướng dẫn. Tổng thống
Lyndon Johnson tôn vinh Cabot Lodge là một nhà chính trị hoàn toàn bất vụ
lợi. Còn George Marshall, Đại tướng kiêm chính trị gia, cũng đã ca ngợi:
“Hễ khi nào quốc gia cần đến một người thì người đó phải là Henry Cabot
Lodge”.
Cuộc đời Henry Cabot Lodge từ trẻ đến già là một cuộc đời chứa đựng
nhiều hoạt động, nhiều biến cố, nhiều bất ngờ,… Cuộc đời đó vẫn sống mãi
với lịch sử trong huy hoàng”.[13]
Đại sứ Henry Cabot Lodge là một chính trị gia tên tuổi của nước Mỹ. Ông
đã kinh qua nhiều bậc thang chiến đấu: từ một nhà báo đến một chiến sĩ tại
chiến trường, từ một Nghị sĩ trong chính trường đến đại diện cho quốc gia
của ông tại Liên Hiệp Quốc, và nhất là vai trò thiết kế ra những chính sách
quan trọng cho đảng Cộng Hòa. Ở địa vị nào ông cũng thành công, và tại
“vũng lầy Việt Nam” ông đã tham dự vào một biến cố làm chuyển động lịch
sử cả Mỹ lẫn Việt.
Năm 1963, độ một tháng sau kh lật đổ chế độ Diệm, ông bà Cabot Lodge
đến nhà tôi ở đường Gia Long thăm viếng vợ chồng chúng tôi và yêu cầu
chụp chung một tấm hình để làm kỷ niệm. Trong buổi gặp gỡ đó, ông Đại
sứ và tôi đã ôn lại biến cố vừa qua để cùng nhau vừa tiếc vừa trách ông
Diệm đã đặt tình nhà trên nợ nước, đã có những lời nói dứt khoát quyết liệt
chống lại lãnh tụ Cộng Sản Hồ Chí Minh mà sau đó lại nghe lời em để thỏa
hiệp với ông Hồ Chí Minh phản bội cả Việt Nam lẫn Mỹ.
Năm 1964, vào khoảng tháng Ba, khi tôi giữ chức Phó Thủ tướng đặc trách
Văn Hóa Xã Hội và Lao Động trong chính phủ Nguyễn Khánh, Đại sứ
Lodge đã trở lại thăm tôi tại văn phòng. Tôi với ông đã thảo luận gần năm
tiếng đồng hồ để kiểm điểm tình hình chính trị và quân sự. Trong cuộc gặp
gỡ này, tôi đã dùng hình ảnh “Thượng điền tích thủy hạ điền khan” của
nông thôn Việt Nam để đề nghị với ông một kế hoạch chận đứng sự xâm
nhập của quân Cộng Sản Bắc Việt vào miền Nam mới hy vọng vãn hồi và