xây dựng được sức mạnh của Việt Nam Cộng Hòa. Ông lấy làm thích thú
chăm chỉ nghe tôi trình bày kế hoạch thiết lập một “phòng tuyến” chạy dài
từ bờ biển Nam Hải lên đến biên giới Lào–Việt, song song với quốc lộ số 9
để ngăn chận sự xâm nhập của quân Bắc Việt. Đi xa hơn, tôi đề nghị phải
vận động với chính phủ Lào để kéo dài chiến tuyến ấy trên lãnh thổ Lào hầu
cắt ngang đường mòn Hồ Chí Minh, còn phía biển, phải sử dụng tối đa lực
lượng Hải Quân Việt Mỹ hỗn hợp để kiểm soát bờ biển, ít nhất là từ Đà
Nẵng ra Quảng Trị. Tôi nói rằng “dù tát hết nước ruộng dưới mà ruộng trên
cứ ào ạt đổ vào thì không bao giờ giải quyết được trận chiến tranh tại miền
Nam.” Tôi đã đưa ra những dẫn chứng Đông Tây, Cổ Kim để thuyết phục
ông: Trương Lương đã đốt đường sạn đạo để chận đứng sự xâm nhập của
quân Hạng Võ và ngăn ngừa ý định đào ngũ của những quân sĩ có đầu óc
chủ bại muốn trốn về Trung Nguyên; Khương Duy đã nhờ dãy núi Kỳ Sơn
giữ vững Tứ Xuyên một thời gian khá dài chống quân Tư Mã Ý. Chiến lũy
Maginot đã buộc quân Đức Quốc Xã phải tiến về phía Hòa Lan mới vào
được đất Pháp. Chiến tuyến 38 đã ngăn chận và đập tan mọi ý đồ của quân
Bắc Hàn tấn công Nam Hàn. Và Khrushchev đã phải xây “Bức tường Ô
Nhục” để chận làn sóng tị nạn của dân Đống Đức trốn qua Tây Bá Linh. Đại
sứ Cabot Lodge đã công nhận những trình bày chiến lược của tôi là hợp lý
và hứa sẽ thảo luận với các nhà làm chính sách tại Hoa Thịnh Đốn. Ngày
ông từ giã Việt Nam, tôi viết một bài báo trên tờ “Sống” của Chu Tử để tiễn
biệt ông và nhắc lại lời đề nghị lập Phòng Tuyến Bến Hải. Không biết Đại
sứ Lodge có bàn bạc gì với chính phủ ông hay không, nhưng mấy năm sau
(1968) một phòng tuyến đã được thiết lập đúng như lời tôi đã đề nghị và
được gọi là “Chiến tuyến MacNamara”. (Năm 1969–1970, trong khóa II của
lớp Cao Đẳng Quốc phòng, Đại tướng Cao Văn Viên cũng đề nghị lập
“Phòng tuyến Bến Hải”). Tiếc thay, khi Hoa Kỳ xây dựng phòng tuyến này
thì chiến sự đã vô cùng sôi động, phòng tuyến MacNamara chỉ xây được 28
cây số rồi đành phải bỏ dở.
Ngày Đại sứ Cabot Lodge hồi hương, chính phủ Nguyễn Khánh thảo luận
việc tặng cho ông một món quà kỷ niệm. Sau một hồi bàn bạc, tôi đề nghị
tặng cho Đại sứ chiếc khăn đóng và chiếc áo gấm, một lưu niệm có màu sắc