Những bước tiến của Khổng giáo
Trong một xã hội mà các thành viên gắn kết chặt chẽ với nhau do những
thiên tai ghê gớm, nguy cơ ngoại xâm thường xuyên đe dọa, lại đặt dưới
quyền lực tuyệt đối của một ông vua hùng mạnh cai trị bằng một bộ máy
quan lại phức hợp, tất phải cần có một học thuyết hướng mọi đầu óc vào
những nghĩa vụ xã hội của từng người, sự vâng lời và lòng trung thành
tuyệt đối với nhà vua, sự tôn trọng không điều kiện đối với hệ thống trật tự
thứ bậc trên dưới. Các triều đại đế quốc Trung Hoa từ đời Hán đã dựng học
thuyết của Khổng Tử thành Quốc đạo; nền quân chủ Việt Nam dần dần
chấp nhận học thuyết đó.
Năm 1070, Lý Thánh Tông cho dựng Văn Miếu để thờ Khổng Tử cùng
với những môn đệ của ông ta, mở trường đào tạo về đạo đức và cách trị
nước cho con em của các đại thần. Năm 1075, mở các kỳ thi tuyển quan lại
đầu tiên cho phép các nho sĩ có thể tham gia bộ máy công vụ; tuy nhiên chỉ
con cái của giới quý tộc mới được dự thi. Năm 1086, tổ chức thi tuyển
những thành viên của ''Viện Hàn Lâm'' có trách nhiệm giữ gìn tư liệu và
thảo các chiếu chỉ của nhà vua. Năm 1089, hệ thống tôn ti của bộ máy quan
lại được quy định một cách rõ ràng chính xác. Sự xuất hiện Khổng giáo
trên sân khấu chính thức là kết quả của một hiện tượng kép; một mặt cần
thiết phải tạo nên một bộ máy quan lại, mặt khác là các nho sĩ có nguồn gốc
bình dân ngày càng đặt chân vào ngành công vụ. Lúc đầu họ chỉ được cho
giữ những chức vụ thứ yếu, những chức quyền cao chỉ dành cho các thành
viên của hoàng tộc và giới quý tộc.
Văn hóa Khổng giáo đã có một bước phát triển quan trọng hơn nữa dưới
nhà Trần, các kỳ thi được pháp điển hóa chặt chẽ hơn, được tổ chức thường
kỳ hơn, học vị “tiến sĩ” xuất hiện, nâng cao uy tín của nền nho học. Những
Viện nghiên cứu được thành lập ở kinh đô, chương trình thi cử được quy
định bao gồm trước hết và việc làm những bài thơ, thảo những chỉ dụ,
những tuyên cáo của nhà vua, bình giảng các sách kinh điển. Bên cạnh các