trường công, có những trường tư của những nhân vật nổi tiếng trong đó nổi
bật nhất là trường của Chu Văn An. Trên bình diện văn hóa, các nho sĩ lấn
át dần các nhà sư của đạo Phật. Năm 1243, Lê Văn Hưu - sử gia lớn đầu
tiên của Việt Nam, thi đỗ tiến sĩ.
Các nho sĩ ngày càng tranh chấp gay gắt vị thế của mình trong chính sự
với giới quý tộc vốn xuất thân con nhà võ, thường là thiếu văn hóa, và với
giới tăng lữ nhà Phật. Ngay từ thế kỷ XIII, cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng
giữa Phật giáo và Khổng giáo đã trở nên ngày càng quyết liệt, phản ánh sự
đối kháng giữa một bên là giới quý tộc - chủ sở hữu những điền trang lớn
và một bên là giai cấp nông dân - chủ sở hữu ruộng đất xuất thân bình dân,
giai cấp này ngày càng lớn lên không ngừng. Vả chăng, vào cuối thế kỷ
XIII, các điền trang bị rung chuyển bở những cuộc nổi loạn của nông nô và
gia nô. Như vậy, con đường phân cách dần dần được vạch ra giữa một bên
là giới quý tộc và giới tăng lữ Phật giáo, và một bên là những nông dân-chủ
đất liên minh với nông nô và nô lệ, mà các Nho sĩ của Khổng giáo là những
người phát ngôn trên bình diện hệ ý thức.
“Trong khi Phật giáo coi thế giới này là hư vô, chủ trương diệt dục và
hướng ý thức về cõi siêu linh, thì nho giáo dạy rằng con người trước hết là
một nhân vật xã hội, gắn bó nhau bằng những ràng buộc xã hội. Trung với
vua, hiếu với cha mẹ, vợ chồng hòa thuận; tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, là
nghĩa vụ mà nho giáo dạy cho mọi người. Từ thiên tử cho đến trời đến thứ
dân, tất cả đều lấy tu thân làm gốc”(
Các nho sĩ không những tiến công vào các tín điều của đạo Phật mà cả
vào vị trí mà Nhà nước và xã hội dành cho Phật giáo. Sử gia Lê Văn Hưu
viết:
“Lý Thái Tổ lên ngôi vừa được hai năm, nhà tông miếu vẫn chưa xây,
nền xã tắc chưa lập, đã dựng tám ngôi chùa ở phủ Thiên Đức, lại trùng tu
chùa chiền ở các lộ, độ hơn nghìn người ở kinh sư làm tăng, ắt là hao phí
thổ mộc tài lực không thể kể xiết! Của cải không phải là Trời mưa xuống,
nhân lực không phải là thần làm ra, há chăng phản hút máu nhân dân đấy
ư?''