Sách này sưu tập các câu cách ngôn của các bậc thánh hiền đời xưa chép trong
kinh truyện và các sách để dạy người ta sửa tâm rèn tính cho ngày một hay lên.
Sách chia làm 20 thiên. Trích lục mấy câu trong thiên thứ nhất là thiên “Kế
thiện”
Âm: Tử viết: Vi thiện giả, thiên báo chi dĩ phúc (phước); vi bất thiện giả, thiên
bào chi dĩ họa.
Nghĩa: Đức Khổng tử nói rằng: “Người làm điều lành thì trời lấy phúc mà báo
cho; người làm điêù chẳng lành thì trời lấy vạ mà báo cho”.
Âm: Thượng thư vân: Tác thiện giáng chi bách trường, tác bất thiện giáng chi
bách ương.
Nghĩa: Sách Thượng thư chép rằng: “ai làm điêù lành trời giáng cho trăm điều
phúc, ai làm điều chẳng lành, trời giáng cho trăm điều vạ.”
Âm: Trang tử viết: “Nhất nhật bất niệm thiện, chư ác giai tự khởi”
Nghĩa: Ông Trang tử nói rằng : “Một ngày không nghĩ đến điều thiện, thì mọi
điều ác đều tự dấy lên”
Minh đạo gia huấn. Nhan sách nghĩa là “sách dạy trong nhà của Minh đạo”.
Minh đạo tức là Trinh hiệu(3), một bậc danh nho đời Tống. Sách gồm có 500
câu thơ tứ ngôn, hoặc mỗi câu mỗi gieo vầ, hoặc cách một câu mới có vần. Các
câu ấy đều là những lời khuyên răn về luân thường đạo lý và chỉ bảo về cách tu
thân xử thế. Có nhiều câu lời gọn ý hay đã thành những câu cách ngôn được
người ta truyền tụng.
(3) Trinh Hiệu: tự Bá Thuần, anh Trinh di, học trò Chu Đôn Di, đổ Tiến sĩ, làm
quan về đời Tống Thần Tôn (1068-1086) có soạn những sách Định tính và Thái
cực đồ thuyết . Đến lúc mất, Văn Ngạn Bác để ở mộ, gọi là Minh đạo tiên sinh,
bởi thế người đời sau vẫn danh hiệu ấy để gọi ông.
Thí dụ:
Khai quyển hữu ích. Chi giả cành thành (câu 71-72)
(Mở sách có ích. Người có tri thì nên)
Tích cốc phòng cơ; tích y phòng hàn
(Trữ thóc phòng đói, trữ áo phòng rét)
Giáo phụ sơ lai; giáo tử anh hài
(Dạy vợ lúc mới về; dạy con lúc còn thơ)