đốt phá, dân Bồn Man có chừng 9 vạn, sau vì chinh chiến và chết đói, còn
độ vài ngàn người.
Vua Thánh Tông chia đất Bồn Man làm bảy huyện, đặt ra phủ Trấn Ninh
và cho quan đến cai trị, nhưng ngài vẫn phong thân nhân của Cầm Công là
Cầm Đồng làm Tuyên Úy Đại Sứ để trông nom thổ dân.
Xét các võ công trên đây, ta thấy đời Hồng Đức đã thanh toán được một
cách khả quan vấn đề biên giới. Chiêm Thành, Lạo qua quấy rối nước ta từ
đầu Thiên Chúa kỷ nguyên, hết đời nọ đến đời kia, gây nên hận thù truyền
kiếp. Ta dầu muốn yên họ cũng không để ta yên, chỉ vì các dân tộc này ngu
muội không tự lượng sức mình lại có tính hiếu chiến, thật là tự chuốc lấy
cái vạ diệt vong, sau này họ lại có thói a tòng với các vương triều Trun
Quốc đánh vào hậu tuyến của chúng ta mỗi khi Việt Nam giao tranh với
Bắc Phương. Tỉ dụ trong cuộc chiến tranh giữa Mông Cổ với VIệt Nam
hoặc trong thời Minh thuộc, đã có khi họ lĩnh việc “Bắc tiến”, có khi họ lừa
dối sang giúp ta đánh quân Minh thì là lúc họ phản ta, vua Lê Thái Tổ trong
những ngày tháng khởi nghĩa đầu tiên đã lao đao vì ngón độc thủ của họ
(Lão Qua). Giờ đây, dân họ bị tiêu diệt, nước bị qua phân không phải là vô
cớ và oan uổng.
Vua Lê Thánh Tông khi huy động đại quân mở cuộc Nam chinh đã
tuyên cáo quốc dân “Rửa cái hổ của các tiền triều” tức là nhắc con dân Việt
Nam cái thù truyền tử nhược tôn giữa ta với các man dân lân cận. Nếu
chẳng cay nhau đến tột bực, có lẽ đâu quân lực toàn quốc nhót 30 vạn mà
tung ra hết, thì ta hiểu triều đình của ta quyết liệt đến thế nào với Chiêm
Thành, Lão Qua và Bồn Man. Lại xem việc cướp phá thành, đặt quận huyện
thì rõ rệt nhà vua đã thực hiện câu không đội trời chung với các địch quốc
dị chủng.
Sau mấy chiến công oanh liệt này, các nhà chép sử phải ghi rằng: cuối
thế kỷ XV, đời Hồng Đức đã gỡ được cho dân tộc cái họa biên cảnh miền
Tây, Nam. Ngoài những thắng lợi về chính trị, ta còn đoạt được thắng lợi về