Mạc Hiển Tích đỗ văn học thủ tuyển năm Bính Dần, niên hiệu Quang
Hựu triều vua Lý Nhân Tông làm quan đến Thượng thư. Em Mạc Hiển Tích
là Mạc Hiển Quan đỗ văn học niên hiệu Quang Hựu, năm Kỷ Tỵ, huynh đệ
đồng triều, sự nghiệp rất hiển hách. Sau năm đời đến Mạc Đỉnh Chi.
Mạc Đỉnh Chi hiệu là Tiết Phu, người bé nhỏ, tướng mạo cực xấu nên
người ta thường cho là hầu tinh giáng thế. Mạc Đỉnh Chi thông minh rất
mực, đỗ Trạng Nguyên năm Giáp Thìn niên hiệu Hưng Long triều vua Trần
Anh Tông, đi xứ Tàu có tài ứng đối được vua Tàu phong cho: “Lưỡng quốc
Trạng Nguyên” rồi về nước làm quan đến Đại liêu Bang Tả bộc Xa, tính rất
thanh liêm, sau xin từ chức về quê dạy học. (Nay ở xã An Ninh còn di chỉ
nền nhà học tức là Trạng Nguyên cổ đường. Làng Long Động thờ làm
Thành hoàng).
Con Mạc Đỉnh Chi là Mạc Khán, Mạc Trực đều đỗ Hương Cống làm
chức Viên Ngoại Lang đời Trần Dụ Tông. Đến đời thứ tư, một chi sang đất
Ma Khê, huyện Thanh Hà rồi lại phân sang làng Cổ Trai thuộc huyện Nghi
Dương. Ở Cổ Trai hai đời thì sinh ra Mạc Đăng Dung.
Trong việc thay đổi cảnh trên sân khấu chính trị nước ta bấy giờ, ngoài
việc của Chiêu Tông bại trận bị giết, còn lại vua Cung Hoàng, bà Thái Hậu
cùng đám quan liêu không thuận theo chiều gió mới bị rơi rụng là lẽ dĩ
nhiên. Những nhân vật tuẫn tiết bấy giờ có các ông Vũ Công Duệ, Ngô
Hoán, Đô ngự sử Nguyễn Thái Bạt, Lễ Bộ Thương thư Đàm Thận Huy,
Tham chính sứ Nguyễn Duy Tường, Quan sát sứ Nguyễn Tự Cường, Bình
hồ bá Nghiêm Bá Kỳ, Đô ngự sử Lại Kim Bảng, Hộ bộ Thượng thư
Nguyễn Thiệu Trị, Phó Đô ngự sử Nguyễn Hữu Nghiêm, Lễ bộ Tả thị lang
Lê Vô Cương, hết thảy là những người có cơm dày áo nặng với cựu triều.
Theo Việt Nam Sử Lược, họ đã mắng chửi họ Mạc, nhổ vào mặt họ Mạc
hoặc ôm ấn nhảy xuống sông tử vẫn. Đây là phản ứng kiểu tiêu cực của
những kẻ yếu thế hay thất thế và chỉ là những hành động tuyệt vọng mà
thôi. Một số người khác như Lê Công Uyên, Nguyễn Ngã, Nguyễn Thọ