quân của Bắc Triều là các tướng lãnh, thân vương nhà Mạc không sành
chiến thuật, chiến lược như họ Trịnh ở miền Nam, do đó Mạc chỉ mua lấy
sự hao binh tổn tướng. Rồi cũng từ năm Dậu, Trịnh Tùng áp dụng kế cố thủ
để đợi quân Mạc vào, càng va chạm bao nhiêu càng tổn thất bấy nhiêu. Tất
nhiên như vậy, Trịnh ở tình trạng sức cố thủ có thừa, sức tấn công thì đuổi.
Việc tấn công của họ Mạc có khi theo thế gọng kìm là đánh cả vào Thanh
Hóa do đường bộ và đánh thốc cả vào hậu tuyến của Tây Đô là Nghệ An.
Với cuộc hành quân đại quy mô này Mạc phải chia quân làm hai cánh
nhưng không đủ sức nên chẳng thâu lượm thêm kết quả nào đáng kể.
Trong giai đoạn này, họ Trịnh dưỡng được sứcquân đội và đến năm Quý
Mùi thì lực lượng Nam triều bắt đầu mạnh mẽ. Rồi năm nào quân Nam Hà
cũng ra quấy phá Sơn Nam để lấy thóc gạo về. Chắc chắn là Tây Đô không
sẵn thực phẩm như vùng Sơn Nam, ngay từ bấy giờ đã là kho gạo như ngày
nay.
Nam triều mạnh thì Bắc triều không những đình chỉ việc tấn công mà
chỉ còn đủ sức để giữ thế thủ mà thôi. Ngay tại thành Đại La (Vào đời Lý là
Thăng Long thành, thủ đô cũ của Đại Việt ta) Mạc cũng cho xây đắp lại: lũy
đắp tới ba tầng, hào cũng thành ba lần vậy mà vẫn không đủ chống lại quân
Nam. Do vậy mà Trịnh Tùng cương quyết cả phá Thăng Long để ăn thua
một lần chót với họ Mạc.
Năm Tân Mão (1591) Trịnh Tùng bố trí cuộc Bắc tiến như sau: phòng
xa quân Mạc đánh vào hậu tuyến của mình như trước đây khi Trịnh Kiểm
đem quân ra Bắc (hành quân năm Kỷ Mùi 1559). Trịnh Tùng bèn chia một
phần lượng phòng thủ ở nhà do Diễn Quận công Trịnh Văn Hải, Thái Quận
công Nguyễn Thất Lý trấn giữ các cửa bể xét quân Mạc có thể tiến vào,
Thọ Quận công Lê Hòa giữ Tổng hành dinh là toàn hạt Tây Đô.
Đạo quân tiến ra Bắc gồm có 5 đội, tổng số là hơn 5 vạn có các quan
Thái phó Nguyễn Hữu Liên, Thái Úy Hoàng Đình Ái, Lân quận công Ngô
Cảnh Hữu mỗi người phụ trách một đội. Riêng Trịnh Tùng lãnh đại quân