Dật lại rút về Vũ Xá (Dinh Quảng Bình tức Lưu Đồn). Nhiều lần Trịnh
muốn đánh mà không thấy quân Nguyễn ra mặt[5], sự thực Nguyễn trốn
đánh bởi không đủ sức chống chọi thì cứ kéo dài sự cố thủ để quân Trịnh
hao mòn về lương thực có lợi hơn. (Các vùng Nam, Bắc Bố Chính vì là
chiến trường lâu năm nên quân đội của đôi bên không nhờ được một thứ gì
của dân sở tại). Quả nhiên sau một tháng quân Trịnh trong một đêm tối,
nhưng trận đánh ở đây cũng không có lợi gì đáng kể. Tháng ba năm Nhâm
Dần (1662) quân mệt, lương hết Trịnh Tạc lại ra lệnh rút quân về Bắc. Vua
Thần Tông về đến Thăng Long thì mất vào tháng 9. Thái tử Duy Vũ lên
thay tức là vua Gia Tông.
Trong dịp này Hữu Dật và Hữu Tiến đắp thêm một cái lũy nữa là lũy
Trần Ninh bên sông hữu ngạn sông Nhật Lệ có ý ngăn thủy quân của Trịnh.
Bên tả ngạn đối chiến với lũy Trần Ninh, Nguyễn cho xây thêm lũy Sa Phụ
về phía đầu sông tục gọi là Đồng Cát.
Đại Chiến Lần Thứ Bảy (Nhâm Tý – 1672)
Tháng 6 năm Nhâm Tý (1672), tức là 10 năm sau hai họ Trịnh, Nguyễn
còn xô xát với nhau một lần nữa và lần này là lần chót. Trịnh Căn làm thủy
quân Nguyên súy. Lê Hiến làm bộ quân Thống suất. Quân Bắc có 100 ngàn
nhưng phao đồn có 180 000. Vua Lê Gia Tông cũng có mặt trong cuộc đại
chiến này bên cạnh Tây Vương Trịch Tạc.
Quân Nam lúc này có tân nguyên soái là Thế tử Thuần (tên lúc nhỏ là
Hiệp)[6] mới hai mươi tuổi, phụ tá có Vệ úy Mai Phúc Lãnh, Ký Lục, Võ
Phi Thừa làm Tham mưu, Chưởng cơ Trương Phúc Cang con thứ Trương
Phúc Phấn (đã nổi danh trong nhiều trận vào năm 1648) và Nguyễn Đức
Báu. Phấn giữ chức Tiên Phong hữu dục, Báu làm Tiên Phong tả dực. Ty
Tướng Thần Lại[7] lo liệu việc thâu thuế bằng tiền bặc hay thóc gạo để
cung cấp cho quân đội sung vào ba kho ở Lai Cách (Bắc Quảng Trị) An
Trạch và Trường Dục (Nam Quảng Bình) Tượng binh có 5 đội mỗi đội có
150 voi trận.