Sử còn chép rằng triều đình có lệnh cho các cấp hành chính tìm cách
giảm bớt những việc tố tụng xét ra vì ảnh hưởng sâu xa và lâu dài của thời
ly loạn, dân tình, dân phong bê bối quá do đó mà xảy ra nhiều vụ tranh
chấp, bất hòa. Kiện lắm dân cũng coi thường mà quan cũng phát ngán, vậy
ý của chính quyền là lo ngăn ngừa bớt việc kiện cáo (chỉ dụ ban hành từ
năm 1718).
3 – Binh Chế
Buổi đầu đời Trung Hưng là lúc họ Trịnh khởi đánh họ Mạc, số quân
vào lúc thịnh nhất là 56.000 người bởi binh sĩ chỉ có thể tuyển mộ ở riêng
hai tỉnh Thanh Nghệ. Nhưng sau khi buổi được họ Mạc ra khỏi miền Trung
châu Bắc Việt (1592) thì binh lực của Trịnh mới được nhiều hơn vì đồng
bằng miền Bắc vừa là kho người vừa la kho của. Binh chia ra làm hai hạng:
Ưu binh và Nhất binh. Ưu binh là lính mộ ở ba phủ thuộc tỉnh Thanh Hóa
và bốn phủ thuộc tỉnh Nghệ An (Đàng trong). Nhất binh là lính tuyển ở bốn
trấn ngoài Bắc (Đàng ngoài): Sơn Nam, Kinh Bắc (Bắc Ninh), Hải Dương,
Sơn Tây cứ 5 xuất đinh bắt một người sung quân ngũ. Lính Ưu binh đóng ở
Kinh đo, được nhiều đặc ân, đặc quyền như được cấp công điền và cả chức
sắc.
Lính Nhất binh phục vụ tại các trấn, phục dịch các quan, có việc loạn ly
và chiến tranh mới được gọi đến, còn bình nhật thì về làm ruộng. Đến đời
chúa Trịnh Doanh có nhiều giặc dã ở nhiều nơi nên phải gọi lính tứ trấn,
động viên cả thảy được 115.000 hợp thành các đơn vị lớn nhỏ như sau:
1) Đội gồm có: 20 người.
2) Cơ gồm 20 đội có: 400 người.
3) Vệ gồm từ 5 đến 6 cơ: 2000 hay 2400 người. (Bên Vệ có Tư là đơn vị
có: 100 người).