có tính cách trừ bị. VIệc binh bị đối với các chúa miền Nam là một việc
quan trọng nhất, gồm những đơn vị dưới đây:
- Ở hạ tầng là Thuyền hay Tiểu đội, có từ 30 đến 50 người cùng làng hay
thuộc làng lân cận. Đội có từ hai ba đến năm Thuyền do một Đội trưởng
hay một Cai đội trông. Cơ gồm có nhiều đội thường có tới từ 6 đến 10
thuyền, có cơ đặc biệt gồm có tới 60 thuyền. Quân số có từ 250 đến 600
người, do một cai cơ hay trưởng cơ chỉ huy. Đời bấy giờ có 5 cơ: Trung cơ,
Tả cơ, Hữu cơ, Hậu cơ và Tiền cơ.
- Dinh gồm có một số quân ngang với cơ do một Trưởng dinh điều kiển.
Dưới quyền Trưởng dinh có các Trưởng cơ (theo sự khảo cứu của các sử
gia Pháp quân số của các đơn vị trong binh đội Nam Hà hay thay đổi về
quân số, nghĩa là quân số khi thăng khi giảm không nhất định).
Số quân của miền Nam bấy giờ có độ 30.000 người.
Năm Tân Mùi (1631), chúa Sãi mở trường bắn, trường tập voi, tập ngựa
và sở đúc súng đại bác (Trên đây đã nói có người Pháp lai Bồ Đào Nha là
Jean de la Croix đã giúp chúa Sãi về việc này và cơ sở đúc súng gọi là
phường Đúc ở Thuận Hóa ngày nay).
4 – Địa Hạt Hành Chính
Vào giữa thế kỷ XVIII, sông Gianh đã thành đường phân giới cho hai
miền Nam – Bắc. Họ Nguyễn chỉ còn có thể mở cương vực về phương
Nam.
Thời chiến tranh với Trịnh năm 1634, Nam Hà mới có 4 dinh Quảng
Bình dinh, Chính dinh gồm có Thừa Thiên Quảng Trị vùng Nam và vùng
Trung ương. Quảng Nam dinh và Trấn Biên dinh (là tỉnh Phú Yên ngày
nay).