Năm Giáp Tý (1744), Vũ Vương xưng vương hiệu, đổi phủ ra điện và
chia Nam Hà ra 12 dinh.
1) Chính dinh (Phú Xuân). 2) Cựu dinh (Ái Tử) Quảng Trị. 3) Quảng
Bình dinh. 4) Vũ Xá dinh. 5) Bố Chính dinh. 6)Quảng Nam dinh. 7) Phú
Yên dinh. 8) Bình Khang dinh. 9) Bình Thuận dinh (đất chiếm của Chiêm
Thành). 10) Trấn Biên dinh. 11) Phiên Trấn dinh. 12) Long Hồ dinh (đất
chiếm của Chân Lạp).
Cầm đầu mỗi dinh là một võ quan với chức vụ trấn thủ để coi cả hành
chính lẫn quân sự. Phụ tá có Cai bộ là viên quan coi về Ngân khố và một
Ký lục tức là một phán quan. Còn phủ Quảng Nghĩa và phủ Quy Nhơn thì
thuộc về Quảng Nam. Mỗi phủ có Tuần phủ và quan Khám lý trông nom
mọi việc. Đất Hà tiên thì gọi là Trấn có quan Đề Đốc cai trị.
Dinh đầu tiên của họ Nguyễn gọi là Ái Tử thuộc huyện Đăng Xương,
gần tỉnh lỵ Quảng Trị. 13 năm sau (1570), Nguyễn Hoàng dời qua làng Trà
Bát cũng cùng huyện ấy, tức là Cát dinh. Đến năm Bính Dần (1626), Chúa
Sãi dời vào Phúc An thuộc huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên để xa chiến
cuộc và đổi dinh ra phủ.
10 năm sau, chúa Thượng lại dời phủ vào làng Kim Long (huyện Hưng
Trà, tỉnh Thừa Thiên). Năm Đinh Mão (1687), chúa Nguyễn Phúc Trân lập
Chính dinh ở làng Phú Xuân. Chỗ phủ cũ làm nhà Thái Tông miếu thờ chúa
Hiền.
5 – Quan Chế
Ở Chính dinh là chỗ Thủ phủ của vua chúa Nguyễn có đặt ra ba ty để
giúp mọi việc chính trị:
1) Xá sai ty giữ việc từ tụng, văn án có quan Đô tri và Ký lục đứng đầu.