đối với thời cuộc và chính quyền cùng với quan niệm của họ đối với vua Lê
và chúa Trịnh[1]. Hồi đó, bảy người được tuyển dụng vào 7 ty tư pháp.
Ngoài những kỳ thi bất thường trên đây để lấy nhân tài, còn những khoa
thì cứ 6 năm một lần mở ra tại các tỉnh vào đầu mùa Xuân.
Ai đỗ thì được miễn các tạp dịch cho tới kỳ đại khảo sau. Qua được kỳ
thi ở các tỉnh, khóa sinh được dự kỳ thi mua Thu thuộc bực cao hơn.
Năm Đinh Hợi (1647) chúa Nguyễn lập ra hai bực thi: thi Chính đồ và
thi Hoa văn.
Chương trình thi Chính đồ gồm có: kỳ đệ nhất thi tứ lục – kỳ đệ nhị thi
thơ phú – kỳ đệ tam thi văn sách. Hội đồng giám khảo có quan Tri phủ, Tri
huyện làm sơ khảo, quan Cai bạ, Ký lục, Vệ úy làm Giám khảo. Khóa sinh
trúng tuyển chia làm ba hạng: hạng thứ nhất được gọi là Giám sinh được bổ
làm Tri phủ, Tri huyện – hạng thứ nhì gọi là Sinh đồ được bổ làm Huấn
đạo; hạng thứ ba cũng gọi là Sinh đồ được bổ làm Lễ sinh hoặc làm Nhiêu
học. Thi Hoa văn cũng mất ba ngày. Mỗi ngày khóa sinh phải làm một bài
thơ. Ai đậu được bổ làm Tam ty (phủ chúa). Năm Ất Hợi (1695), chúa
Nguyễn Phúc Chu (1691 – 1725) mở khoa thi tại phủ chúa gọi là thi Văn
chức và thi Tam ty. Thi Văn chức có tứ lục, thơ phúc, văn sách. Thi Xá sai
ty thì khảo về binh vụ, quân lương, từ tụng. Thi tướng thần lại ty và Lệnh
sử ty thì chỉ có một bài thơ thôi.
Năm Canh Thân (1740), dưới đời Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát (1738
– 1765) quyền lợi của khóa sinh được định như sau: những người đậu kỳ đệ
nhất gọi là Nhiêu học được miễn sai 5 năm; đậu kỳ đệ nhị và đệ tam được
miễn sai vĩnh viễn; ai đậu kỳ đệ tứ gọi là Hương cống, sẽ bổ Tri phủ, Tri
huyện.
Xét chương trình thi cử của Nam Hà bây giờ, ta thấy sơ lược quá so
sánh với các tiền triều (Trần và Hậu Lê); sự kiện này cho phép ta nghĩ rằng